NHỮNG NGÀY XƯA GHI DẤU SỬ XANH : TRƯỚC TRẬN HOÀNG SA (19-1-1974) .

14 Tháng Giêng 20248:21 CH(Xem: 289)
Hoàng Sa (Paracel Archipelago) là một quần đảo gồm khoảng trên 100 đảo nhỏ trên Thái Bình Dương (Biển Đông), giữa kinh tuyến 111 và 113 độ Đông, và vĩ tuyến 15 đến 17 độ Bắc, ngang với vùng bờ biển từ tỉnh Quảng Trị đến tỉnh Quảng Ngãi. Quần đảo nầy gồm hai nhóm: Nhóm phía tây là Nguyệt Thiềm (hay Trăng Khuyết) (Crescent group) và nhóm phía đông bắc là An Vĩnh (Amphitrite group).
HOÀNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM .
Trong lịch sử, nhiều tài liệu chứng tỏ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên Biển Đông thuộc chủ quyền nước Việt. Có thể trước hoặc trong thơi Hiên Vương Nguyễn Phúc Tần (cầm quyền ở miền nam sông Gianh từ 1659-1687), chúa Nguyễn lập đội Hoàng Sa, nhiệm vụ ra vào hàng năm theo mùa gió, nhằm kiểm soát và khai thác tài nguyên ở quần đảo này .
Từ thời nhà Nguyễn, hàng năm, triều đình gởi thuyền ra Hoàng Sa thăm dò rồi trở về. Năm 1835 vua Minh Mạng sai thuyền chở gạch đá, đến xây đền trên đảo Bàn Than (thuộc Hoàng Sa), dựng bia để ghi dấu, gieo hạt trồng cây. Khi đào móng đắp nền, xây đền, các lính thợ đã đào được 2,000 cân đồng và gang sắt. (Quốc sử quán nhà Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, quyển 8, tỉnh Quảng Ngãi, Phạm Trọng Điềm dịch, Huế: Nxb. Thuận Hóa, tập 2, 1997, tr. 322-323.)
Từ đó, theo mùa gió hàng năm triều đình nhà Nguyễn gởi thủy binh ra Hoàng Sa vào cuối tháng giêng (âm lịch) để thăm dò, bảo vệ, rồi trở về sáu tháng sau. Dưới thời Pháp thuộc, Pháp bắt đầu đặt trạm quan thuế và tuần tra quần đảo từ năm 1920. Sau đó Pháp lập trạm khí tượng năm 1933. Trạm nầy thuộc quyền quản lý của sở Khí tượng ở Đà Nẵng. Từ năm 1938, Pháp xây bia, dựng hải đăng và lập đội biên phòng bảo vệ Hoàng Sa. Ngày 30-3-1938, vua Bảo Đại (trị vì 1926-1945) ban đạo dụ tách Hoàng Sa khỏi liên tỉnh Nam Ngãi và nhập vào tỉnh Thừa Thiên.
Trước khi thế chiến thứ hai bùng nổ, ngày 31-3-1939, có thể do nhu cầu quân sự, chuẩn bị tiến xuống Đông Nam Á, Nhật đưa quân chiếm quần đảo Trường Sa (Spratlys), và sau đó vài ngày chiếm tiếp quần đảo Hoàng Sa (Paracel Archipelago). (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu 1939-1975 (tập A: 1939-1946), Houston: Nxb. Văn Hóa, 1996, tr. 16.) Khi Nhật Bản đầu hàng năm 1945, Pháp tái kiểm soát các quần đảo trên Biển Đông. Ngày 14-10-1950, Pháp chuyển giao Hoàng Sa cho Quốc Gia Việt Nam. Thủ hiến Trung Việt là Phan Văn Giáo ra tận Hoàng Sa làm lễ tiếp nhận. (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu 1939-1975 (tập B: 1947-1954), Houston: Nxb. Văn Hóa, 1997, tr. 196.)
Nhân lúc Nhật Bản đầu hàng năm 1945, Trung Hoa Dân Quốc gởi quân chiếm một số đảo trong quần đảo Hoàng Sa năm 1946, nhưng chính phủ Pháp phản đối. Năm 1949, lên cầm quyền ở Trung Hoa, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa tiếp tục đòi hỏi: “Chính quyền Quốc Dân Đảng đã nghiên cứu và xác định tên tiếng Trung Hoa và tiếng Anh cho toàn bộ các đảo, vỉa đá Trung Hoa trên biển phía nam Trung Hoa vào tháng 12/1934 và tập hợp chúng lại thành bốn quần đảo lần đầu tiên. Một bản đồ ấn hành vào tháng 4-1935 cho thấy chi tiết các đảo của Trung Hoa trên biển phía nam Trung Hoa, đánh dấu mũi cực nam của biển phía nam Trung Hoa là Zengmu’ansha ở vĩ độ 4 độ Bắc chí tuyến. Một bản đồ khác, ấn hành tháng 2/1948 cho thấy, sự phân chia hành chính của Trung Hoa Dân Quốc. Bản đồ còn cho thấy đường nối dài 11 điểm bao quanh bốn quần đảo với mũi cực nam ở Zengmu’ansha. Đây là bản đồ đầu tiên đánh dấu biên giới hình chữ U của Trung Hoa trên biển phía nam Trung Hoa. Các bản đồ ấn hành sau khi Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa thành lập [1949] đã giữ lại đường nối dài 11 điểm, và cho tới năm 1953, thì hai điểm đánh dấu Vịnh Bắc Việt bị xóa bỏ. Sau đó, tất cả bản đồ Trung Hoa đều theo đường nối dài chín điểm, hình chữ U.” (China Daily ngày 22-7-2011 trang 9.)
Trong khi đó, sau thất bại năm 1945, tại Hội nghị hòa bình San Francisco (Hoa Kỳ) ngày 6-9-1951, Nhật Bản tuyên bố từ bỏ chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đại diện Liên Sô là Andrei Gromyko cho rằng quần đảo Hoàng Sa (Paracel Archipelago) và các đảo khác về phía nam, được xem là lãnh thổ của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH), và yêu cầu hội nghị bổ sung vào hiệp định là các hải đảo đó thuộc chủ quyền của CHNDTH. Tuy nhiên, Gromyko không đưa ra được bằng chứng cụ thể nào chứng minh chủ quyền của CHNDTH đối với các đảo trên, nên hội nghị đã bác bỏ yêu cầu của Liên Sô.
Thủ tướng Quốc Gia Việt Nam lúc đó là Trần Văn Hữu xác nhận tại diễn đàn hội nghị nầy rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam. Không một nước nào lên tiếng phản đối. (Vào Google, chữ khóa “Hội nghị hòa bình San Francisco năm 1951”.)
Qua thời Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), Tổng thống Ngô Đình Diệm ban hành “Luật và sắc lệnh” số 174 NV ngày 13-7-1961 đặt tên quần đảo Hoàng Sa là xã Định Hải, trực thuộc quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam, do một phái viên hành chánh đứng đầu.(Xin xem văn bản đính kèm.) Quyết định sáp nhập Hoàng Sa vào tỉnh Quảng Nam có thể dựa vào vĩ độ của quần đảo Hoàng Sa tương đương với vĩ độ của tỉnh Quảng Nam và cũng có thể trạm khí tượng trên Hoàng Sa trực thuộc Sở Khí tượng Đà Nẵng.
Trong khi đó từ Cù Lao Ré (Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi) ra tới đảo Tri Tôn (cực tây của Hoàng Sa) là 123 hải lý. Ngày 21-10-1969, Thủ tướng Trần Thiện Khiêm ký nghị định số 709-BNV/HĐCP sáp nhập xã Định Hải vào xã Hòa Long, cũng thuộc quận Hòa Vang tỉnh Quảng Nam.
BẢN TUYÊN BỐ NGÀY 4-9-1958 CỦA TRUNG CỘNG.
Từ 24-2 đến 29-4-1958, Liên Hiệp Quốc (LHQ) tổ chức hội nghị tại Gènève để bàn về luật biển. Các nước hội viên tham dự ký kết bốn quy ước về luật biển (United Nations Convention on Law of the Sea) (UNCLOS): 1) Quy ước về hải phận và vùng tiếp giáp. 2) Quy ước về thềm lục địa. 3) Quy ước về hải phận quốc tế. 4) Quy ước về nghề đánh cá và bảo tồn tài nguyên sống ở hải phận quốc tế. Riêng quy ước về hải phận và vùng tiếp giáp, các nước tham dự có lập trường khác nhau về chiều rộng của hải phận, và không có lập trường nào hội đủ túc số 2/3 để thành luật. (http://untreaty.un.org/ilc/texts/instruments/english/conventions/8_1_1958_territorial_sea.pdf.)
Khi diễn ra hội nghị Genève về luật biển, CHNDTH chưa gia nhập LHQ nên chưa được tham dự hội nghị nầy. Ngày 4-9-1958, CHNDTH đưa ra tuyên bố về lãnh hải, gồm có 4 điều theo đó điều 1 và điều 4 mặc nhiên khẳng định rằng các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về lãnh thổ CHNDTH và gọi theo tên Trung Hoa là Xisha [Tây Sa tức Hoàng Sa] và Nansha [Nam Sa tức Trường Sa].
Cộng Hòa NDTH tự cho rằng Hoàng Sa và Trường Sa thuộc CHNDTH, chỉ dựa vào bản đồ do chính quyền Tưởng Giới Thạch nghiên cứu và vẽ năm 1934. Chắc chắn, bản đồ nầy cũng có trong hồ sơ của Andrei Gro- myko tại hội nghị San Francisco năm 1951, nhưng hồ sơ nầy đã bị hội nghị bác bỏ vì thiếu bằng chứng lịch sử. Ngoài ra, tuy từ đảo Hải Nam (CHNDTH) xuống tới Hoàng Sa là 140 hải lý, nhưng CHNDTH nói rằng từ đảo Hải Nam tới bãi đá ngầm (North Reef) của Hoàng Sa là 112 hải lý để chứng minh rằng quần đảo nầy gần CHNDTH hơn Việt Nam. Tuy nhiên, bãi đá ngầm dưới mặt nước biển không phải là đảo nên cách lý luận trên không được quốc tế chấp nhận. (Vũ Hữu San, Địa lý Biển Đông, Westminster: 2007, tt. 150-151.
Cộng Hòa NDTH đưa ra bản tuyên bố nhằm khẳng định chủ trương của CHNDTH mà không gởi riêng cho nước nào trên thế giới.
Thế mà chỉ 10 ngày sau, Phạm Văn Đồng, thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) tức Bắc Việt Nam (BVN), với sự đồng ý của chủ tịch BVN là Hồ Chí Minh và bộ Chính trị đảng Lao Động, một tổ chức không có trong hiến pháp, nhưng thực tế cầm quyển tối cao ở BVN, vội vàng ký công hàm ngày 14-9-1958, tán thành quyết định về lãnh hải của CHNDTH.
CỘNG SẢN HCM TÁN THÀNH BẢN TUYÊN BỐ NGÀY 4-9-1958 CỦA TRUNG CỘNG.
Phần chính công hàm Phạm Văn Đồng viết như sau: “Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc.Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa trên mặt bể.”
Trong lịch sử. quần đảo Hoàng Sa vốn thuộc Việt Nam, nhưng CHNDTH muốn bành trướng, tìm đường xuống Đông Nam Á và tìm kiếm tài nguyên thiên nhiên dưới lòng Biển Đông, nên nhân cơ hội Liên Hiệp Quốc đưa ra luật biển tại hội nghị Genève từ 24-2 đến 29-4-1958, CHNDTH đưa ra tuyên bố ngày 4-91958, tự nhận Hoàng Sa và Trường Sa là của CHNDTH. Thế mà Cộng sản HCM lại tán thành bản tuyên bô trên đây của CHNDTH, tức mặc nhiên thừa nhận hai quần đảo nầy là của CHNDTH. Như thế, Cộng sản HCM phạm tội phản quốc là tội bị lên án nặng nề nhứt trong lịch sử cổ kim đông tây.
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn