SÔNG NÚI NƯỚC NAM - ĐẤT LINH SINH NHÂN KIỆT : DÃY NÚI TRƯỜNG SƠN BẮC - PHONG TRÀO ĐÔNG DU - CHÍ SĨ SÀO NAM PHAN BỘI CHÂU BÔN BA CỨU NƯỚC , CỨU DÂN VIỆT NAM . ( Phần 3 of 5 )

01 Tháng Mười Hai 20216:12 CH(Xem: 1163)
Dãy Trường Sơn Bắc bắt đầu từ phía nam sông Cả và kéo dài đến dãy Bạch Mã, gồm các dãy núi chạy song song và sole nhau theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, càng về phía Nam dãy Trường Sơn càng sát bờ biển, có nhiều dãy núi đâm ngang thẳng ra biển như Hoành Sơn (giữa Hà Tĩnh và Quảng Bình), và Bạch Mã (giữa Thừa Thiên Huế và Quảng Nam). Sườn phía đông dốc, sườn phía tây thoai thoải.
Đồng bằng Nghệ An có sông Cả dài 600Km, bắt nguồn từ cao nguyên XiêngKhouang trên Lào, chảy theo hướng Tây bắc - Đông nam qua nhiều huyện của Nghệ An, đoạn hạ lưu có tên sông Lam. chảy theo hướng TB- ĐN trong các huyện Đức Thọ, Can Lộc và Thạch Hà và đổ ra Biển Đông ở Cửa Sót chỉ cách thị xã Hà Tĩnh khoảng 10Km phía Bắc. Diện tích lưu vực khoảng 27.200 Km2, một phần lưu vực nằm trên đất Lào, chiếm khoảng 35% diện tích.
Sau khi sông Cả chạy qua Con Cuông, thì tiếp nhận nước từ bờ trái là sông Hiếu. Sông này bắt nguồn từ dãy núi Phu Hoat. Đập Đô Lương trên Sông Cả tưới được nhiều ruộng ở các vùng Yên Thành, Diễn Châu, Quỳnh Lưu .Từ Đô Lương trở đi, sông Cả đi vào đồng bằng, lòng sông nhiều uốn khúc. Cách cửa sông 30 Km, gần Bến Thủy, sông Cả lại nhận thêm nước từ hai sông là Ngàn Sâu và Ngàn Phố. Lưu vực sông Cả có diện tích 27.224 Km2, trong đó 9.470 Km2 thuộc vùng núi Ai Lao (Xieng Khoang và Sầm Nứa).
Đồng bằng Nghệ An có bãi biển Cửa Lò, dài 12Km, cách thành phố Vinh 16 Km về phía Đông Bắc. Cửa Lò là nơi hai con sông đổ ra biển: sông Cấm ở phía Bắc và sông Lam phía Nam.
Đồng bằng Hà Tĩnh có dãy núi Trường Sơn chạy gần biển, đặc biệt có rặng núi Hồng Lĩnh (tên khác: Ngàn Hống) với 99 ngọn núi hình răng cưa sừng sững chọc trời, nhưng cũng có vài thung lũng rộng ở phía trong như tại huyện Hương Khê giáp Lào.
Các dòng sông ở đây thì nhiều nhưng ngắn. Có hai dòng sông quan trọng :
- Ngàn Sâu dài 131 Km, chảy qua thung lũng Hương Khê, chảy theo hướng Nam - Bắc .
- Ngàn Phố dài 86 Km là sông bắt nguồn từ vùng biên giới Việt Lào thuộc huyện Hương Sơn.
Hai sông Ngàn Sâu và Ngàn Phố gặp nhau ở Linh Cảm rồi chảy vào Sông Lam ( sông Cả ) để ra biển ở Cửa Hội.
Rú Đụn hay núi Đụn nằm giữa ranh giới huyện Nam Đàn và Thanh Chương phía Tây nam trong lưu vực sông Cả qua Nam Đàn tỉnh Nghệ An .
Huyện Nam Đàn là nơi đã sinh ra hai vị Anh Hùng Dân Tộc nổi tiếng :
-Một đã góp phần vẻ vang sự nghiệp chống sự cai trị tàn bạo của giặc Tàu - Đường ( Trung Hoa ) đó là Vua Đen Mai Hắc Đế hay Mai Thúc Loan .
-Một vị Chí Sĩ Yêu Nước Sào Nam Phan Bội Châu đã hy sinh bản thân để tìm đường chống lại sự đô hộ của thực dân Pháp .
CHÍ SĨ SÀO NAM PHAN BỘI CHÂU, MỘT ĐỜI VÌ NƯỚC:
Từ đầu thế kỷ XX, phong trào chống thực dân Pháp nổi lên khắp nơi trong nước với hai phái ôn hòa và chủ trương dùng vũ lực nhưng cả hai đều muốn duy tân đổi mới đất nước mọi mặt theo gương Minh Trị Thiên Hoàng của Nhật Bổn lúc đó, được coi như ngon đuốc dẫn đường của các quốc gia Á Châu đang bị bọn thực dân da trắng đô hộ.
Tiêu biểu cho hai phái trên là Phan Chu Trinh (phái Duy Tân) và Phan Bội Châu, lãnh tụ phong trào Đông Du, tìm phương tiện đánh đuổi Pháp ra khỏi nước. Tại Nam Kỳ, tinh thần yêu nước của mọi người cũng sôi nổi mạnh mẽ, không những trong hành động mà còn thể hiện trên báo chí, một sự thống nhất kỳ lạ ở nội dung tư tưởng và hình thức thi pháp, với những tên tuổi Nguyễn Thần Hiến, Nguyễn Quang Diệu, Trần Chánh Chiếu, Hoàng Hưng..
Bấy giờ cả nước như đang nổi sóng với phong trào ái quốc, lan rộng từ Bắc vào Nam. Đối với dân tộc Việt bao đời, với truyền thống yêu nước, nên lúc nào máu chảy ra từ cơ thể con người, cũng vẫn là dòng máu hiến dâng cho đại nghĩa dân tộc. Bởi vậy đối với bất cứ ai, dù có sống nơi đồng ruộng hay xóm chài, không hẳn chỉ biết có chung đụng với chó gà, tôm cá mà thôi. Họ còn có tấm lòng yêu nước nồng nàn, nhờ đó mà ngàn năm qua, Đại Việt mới bền vững hiên ngang đối mặt với bất cứ kẻ thù nào như lịch sử đã minh chứng một cách chân thật.
Ngay lúc còn nhỏ, Phan Bội Châu qua tên Phan Văn San, đã nổi tiếng thần đồng hay chữ, vì được sinh trong một gia đình nho học, cả cha mẹ đều là những ngưòi biết giữ đạo thánh hiền,nhờ vậy ông đã hấp thụ được bao điều nghĩa nhân ái quốc. Ông ra đời tại thôn Đan Nhiễm tức là Sào Nam, nên khi dấn thân vào con đường cứu nước, mới lấy tên là Phan Sào Nam, xã Đông Liệt, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
Ngay từ thời niên thiếu, chính mắt đã chứng kiến cảnh quốc phá gia vong, sau khi Pháp vừa chiếm xong Nam Kỳ lại tiến quăn cướp phá thành Hà Nội cùng các tỉnh Bắc Việt. Nên dù chỉ mới 17 tuổi nhưng tư tưởng yêu nước của Phan Bội Châu đã bộc lộ quá rõ ràng, khi viết bài hịch 'Bình Tây Thu Bắc', cả gan đem dán ở gốc đa đầu làng, hô hào mọi người tham gia phong trào Văn Thân chống giặc Tây.
Kế tới, năm Ất Dậu 1885, Tôn Thất Thuyết nửa đêm mở cửa thành tấn công Pháp, bị thất bại khiến Huế lọt vào tay giặc từ đó. Vua Hàm Nghi xuất bôn dùng máu viết huyết thư kêu gọi toàn dân cả nước Cần Vương cứu nước.
Dù tuổi trẻ, Phan đã dám hô hào bạn bè trang lứa trong làng, để lập đội Thiếu Sinh Quân đánh giặc. Lại viết Song Tuất Lục, ca tụng tinh thần chống Pháp của Sĩ phu đất Nghệ, đang tham gia phng trào Văn Thân chống giặc Tây. Tất cả đã nói lên con người hào kiệt Phan Bội Châu, nên chẳng trách ông đã bị cấm thi, cho tới năm 1900 mới được thi lại và đổ Giải Nguyên tại Nghệ An. Nhưng không như hầu hết kẻ đương thời, tiếp tục lao vào con đường thi cử để tìm vinh hiển phú quý trong chốn quan trường, trái lại Phan Bội Châu chỉ biết bôn ba xuôi ngước khắp nơi, tìm đồng chí, để mưu toan việc chống Pháp cứu nước.
Năm 1904 ông cùng Nguyễn Hàm lập Duy Tân Hội, tôn Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, thuộc dòng Đông cung Nguyễn Phúc Cảnh, làm minh chủ và nhận lệnh bí mật sang Nhật năm 1905, phát động phong trào Đông Du, gây dựng cơ sở để đưa các nam nữ thanh niên yêu nước ra hải ngoại học hỏi tinh hoa của người, đồng thời tìm kiếm nguồn cung cấp vũ khí để chuẩn bị tổng tấn công, đánh đuổi giặc Pháp ra khỏi non sông gấm vóc Hồng-Lạc..
Trên đất Nhật, Phan Bội Châu dùng thơ văn nồng nàn thắm đượm như Hải Ngoại Huyết Thư, Kính Cáo Toàn Quốc Phụ Lão Văn, Thư Gửi Phan Chu Trinh, Ai Cáo Nam Kỳ Phụ Lão Thư, nhưng có tác động sấm sét, không thua gì cơn cuồng phong bão tố, thắm đượm vào tâm hồn quốc dân cả nước, tỉnh giấc Nam Kha, không còn quan niệm nhỏ nhoi, coi việc nước là của quan quyền, chứ không phải của chính mình, nên cứ thờ ơ trốn trách nhiệm..
Đồng thời Ông còn viết VN quốc sử (1905), VN quốc sử khảo (1908), để giới thiệu gấm vóc và dân tộc Việt oai hùng dũng liệt, với các chính khách Trung Hoa, Nhật Bản đương thời. Qua những hoạt động đấu tranh vô cùng hiệu quả của Phan Bội Châu, Cường Để và các thanh niên trong phong trào Đông Du tại hải ngoại, khiến thực dân Pháp thực sự khiếp sợ, nên chúng đã đem quyền lợi của thuộc địa Đông Dương, để chia phân với Nhật Bổn, yêu cầu trục xuất tất cả những nhà cách mạng VN đang hoạt động ở đây.
Cùng từ đó, Phan Bội Châu sống đời vong quốc của một nhà cách mạng, bôn ba hết đất Tàu tới Xiêm, chỉ mong tìm đồng chí, đồng tâm, giải cưú quốc dân đang sống nhục nhã dưới gót giày nô lệ của giặc Tây, rửa mỗi nhục nhược tiểu của nước Việt trong cơn quốc biến. Rốt cục mộng lớn chưa thành đạt, thì năm 1925, trên đường tới Quảng Châu viếng mộ Liệt sĩ Phạm Hồng Thái, Chí sĩ Phan Bội Châu bị mật thám Pháp-Anh tại tô giới , qua sự chỉ điểm của đám Việt gian lúc đó, bắt giải về nước và sống kiếp chim lồng cá chậu tại Bến Ngự (Huế), cho tới lúc mãn phần vào năm 1940.
Ông mất vào ngày 20 tháng 10, trong nỗi thê lương, trầm thống như hầu hết những anh hùng liệt nữ bao đời, vì nước coi nhẹ lợi danh phù phiếm, sồng buồn chết lẽ loi, nên đám tang vắng vẽ, còn báo chí vì sợ bạo quyền, phải câm nín, cuối cùng chỉ có mật thám Pháp vây bủa khắp mọi nẻo đường, để chào vĩnh biệt người quá cố đi vào cõi trăm năm mà thôi.
Suốt mấy mươi năm bôn ba đường cách mạng cứu nước, Phan Bội Châu đã từng thay đổi nhiều lần phương hướng hoạt động đấu tranh nhưng tuyệt đối bản sắc Sào Nam Tử không hề lẫn lộn với bất cứ ai, dù đó là Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Thượng Hiền..
Là người có ý chí sắt đá, Phan Bội Châu luôn mạo hiểm, quả quyết, lúc nào cũng tự tin là trong thiên hạ, nếu muốn thì không có việc gì là không thể làm được. Nhưng dù là một nhân vật lớn của thời đại, Phan Bội Châu không bao giờ có hành động độc tài, tư tưởng độc đảng và tâm tư hoài vọng tới cuộc sống riêng mình, mà luôn lắng nghe dư luận, để cầu tiến đổi mới theo tình hình chính trị đương thời và gần như cắt đứt những gì của riêng mình, để chỉ nghĩ tới đại nghĩa dân tộc mà thôi.. Đó chính là nét độc đáo của lãnh tụ Đông Du, luôn phục thiện, dám làm, luôn đi đầu và cam chịu hy sinh thân phận của mình để mưu cầu chính nghĩa, ngay từ lúc còn niên thiếu, cho tới khi tóc đã bạc cả mái đầu:
"Mò tìm quên quách chòm râu bạc.
Bảy chục còn nghi tuổi mới ba".
Nghệ An-Hà Tỉnh, một trong 15 bộ của Văn Lang từ thời Tổ Hùng dựng nước, trong dòng sử của dân tộc, là đất ngàn năm văn vật, quê hương của những tài danh văn học kiệt hiệt Nguyễn Du, Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Thiếp, Nguyễn Huy Hổ, Nguyễn Trường Tộ. Chính khí thiêng sông núi sau này đã tạo nên những con người bất tử Phạm Hồng Thái, Đặng Thái Thân, Đặng Thúc Hứa, Trần Hữu Lục, Hoàng trọng Mậu , Cao Thắng, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu.
Chính điều kiện lịch sử và xã hội ảnh hưởng đến con người xứ Nghệ, quá can đảm đến sơ suất, cần cù đến liều lĩnh, kiên quyết đến khô khan và tằn tiện đến cá gỗ. Những đặc tính đó đã ảnh hưởng tới nhiều người ngang tàng, nghệ sĩ như Nguyễn Hũu Chỉnh, Nguyễn Công Trứ hay tạo nên cái hùng tráng sấm sét, của những câu thơ luôn dậy sóng muôn trùng của Phan Bội Châu.
Cái chất anh hùng hào kiệt trong thơ văn của Phan ngay từ lúc chưa xuất dương, đã nói tới khí phách của giới trí thức VN đầu thế kỷ XX, tuy hình thức vẫn sử dụng các thể thơ cổ xưa như thất ngôn bát cú, hát nói..nhưng nội dung đã khác biệt thuở xa xưa, vì tư tưởng không còn tôn quân hay tri thiên mệnh, mà chỉ thấy nói tới Dân vi Quý , nước vì dân mà có, thì dân cũng vì nước mà lo.
Tư tưởng này 100 năm sau, cũng đã được Cố Tổng Thống, đệ nhị VNCH Nguyễn Văn Thiệu, đã nhắc lại với lời lẽ thiết tha thắm đượm "Đất nước còn thì còn tất cả", ý ông muốn nói, nước có được là do mọi người chung sức tạo thành, nên còn nước thì còn những gì hiện tại và sẽ mất tất cả khi nươqc không còn.
"Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển đời
Non sông đã chết, sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu, đọc cũng hoài"
Tóm lại với Phan Bội Châu, trách nhiệm của người hào kiệt, trước nhất là phải ý thức, biết tự mình làm chủ đất nước, say mê hành động, không bao giờ được trốn tránh bổn phận để làm một kẻ ẩn dật đứng bên lề xã hội như kẻ tha nhân vô tình, sống ký sinh vào mồ hôi máu mắt của người khác. Trong lúc Phan Chu Trinh cả đời bài phong kiến, chống thực dân nhưng vẫn muốn cậy vào cái văn minh của Tây để duy tân đất nước.
Trái lại Phan Bội Châu đã thẳng thừng tố cáo trước quốc dân cái dã tâm của bọn thực dân da trắng, xâm lăng nước Nam chỉ để vơ vét bốc lột, những cái gọi là văn minh khai hóa, chỉ là lớp son phấn bên ngoài, nhưng thực chất là chỉ ở đâu, chứ không bao giờ thấy có được nơi bản địa :
"Trường Quốc Học, đặt tên là Pháp-Việt
Dạy người Nam đủ biết tiếng Tây
hoặc: "Nó nuôi mình như trâu, như chó
Nó coi mình như cỏ như rơm
Trâu nuôi béo, cỏ coi rơm
Cỏ moi rễ cỏ, trâu làm thịt trâu"
Ngày nay khi nhắc tới các biến cố lịch sử trọng đại đầu thế kỷ XX, các sử gia vẫn xem sự kiện Phan Châu Trinh đề xướng Dân chủ để thay thế thể chế Quân chủ, như một bước ngoặc quan trọng, trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp. Riêng Phan Bội Châu trong tân phái (Duy Tân Hội),lúc đầu vẫn chủ trương quân chủ lập hiến, nhưng đồng thời ông cũng nhiệt liệt ủng hộ lập trường Dân chủ của Phan Tây Hồ.
Sau này, qua những tháng năm bôn ba nơi hải ngoại, tư tưởng đấu tranh của Sào Nam càng lúc càng thay đổi rõ rệt. Chẳng những Ông đề xướng quan niệm dân chủ của Phan Châu Trinh, khi nhấn mạnh sự quan hệ giữa người dân, đối với chủ quyền của đất nước, mà còn tiến tới sự kết hợp giữa đấu tranh dân chủ, trong đó có vấn đề nhân quyền, dân quyền trong đời sống chính trị và sự đấu tranh giành độc lập.
Sự khác thường của hào kiệt Phan Bội Châu là chẳng bao giờ độc tôn dành quyền một mình chống Pháp, bởi thế ngay từ lúc nhập cuộc, khi viết Hải Ngoại Huyết Thư gửi về nước để hô hào toàn quốc chống Pháp, ông đã minh định một cách rõ ràng về trách nhiệm, thuộc về ai khi làm non sông bị rơi vào tay giặc Pháp nhưng cũng không quên nhắc tới trách nhiệm phục quốc sẽ thuộc về ai. Từ tư tưởng của Phan Bội Châu đã cho chúng ta một ý niệm rõ ràng, đó là đất nước là của chung mọi người VN, bao gồm chánh quyền (Vua quan) và người dân. Do đó muốn cứu nước, đừng mong gì nơi nhà cầm quyền, mà chính người dân phải tự mình chia nhau nhận lãnh trách nhiệm:
"Nếu cả nước đồng lòng như thế
Việc gì coi cũng dễ như không
Không việc gì việc không xong
Nếu không xong quyết, là không có trời"
Mấy ngàn năm qua, non sông Hồng Lạc đâu có thiếu anh hùng liệt nữ và cũng nhờ vậy mà đất nước mới tồn tại đến hôm nay. Cái thảm tuyệt mà đời nào cũng có, đó là sự thiếu đồng tâm, đồng chí, khiến cho sức mạnh của dân tộc bị mất mát, tạo cơ hội để ngoại nhân xâm lấn, làm phương tiện cho lũ cầm quyền thối nát bán buôn đất đai biển đảo mà tiền nhân đã đổ xương máu gầy dựng. Từ năm 1925-1940 bị giặc Pháp bắt và giam lỏng tại Huế nhưng ý chí sắt đá của người hào kiệt trí thức Phan Bội Châu vẫn không sút giảm, dù đang sống trong tử địa.
Ông viết:
"Sống không trừ được mối lo thiên hạ, chết không rữa được thù ý trung. Mối giận dằng dai, sông Cả núi Hồng muôn thuở đó.
Hý cuộc trước đã sắp đến tàn vũ đài sau chính đang sắp dựng. Thúc người sôi sục, gió Âu mưa Á tám phương dồn ".
Ôi còn gì cao quý hơn, trong khi cái chết gần kề nhưng Phan Bội Châu đã không hề quan tâm tới mạng mình khi viết lời tuyệt mệnh, mà chỉ lo lắng cho cuộc tồn vong của đất nước và sinh mạng của những đứa con thân yêu VN đang tiếp tục ngăn chống giặc thù.
Xưa nay cuộc đời của những người dấn thân vì nước, đều mnag chung nổi bất hạnh cuối đời, nếu không lên máy chém hay chết mòn trong ngục lạnh, thì cũng bị nghèo đói bệnh tật bủa vây như cảnh sống éo le đắng cay của Phan Bội Châu, trong gian nhà nhỏ, chẳng kín trên bền dưới "Ngoài rèm nguyệt xế mây lai láng.
Bên án đèn khua gió hắt hiu.
Căng dù ngồi giữ vài chồng sách.
Đội nón ra xem mấy khóm cây".
Tự do cho đất nước đã không dành được mà còn vướng thân tù ngục, Phan Bội Châu xứng đáng là hào kiệt nước Nam, một đời vì nước
Là một con người tài hoa, Phan Bội Châu không những là một thi nhân vang danh bốn biển với hàng trăm bài thơ đủ loại, từ ca tụng gió trăng mây nước hữu tình, cho tới những đề tài cảm hoài, tức sự, trào phúng và gửi gấm nổi niềm tâm sự của trang hào kiệt trong cơn đất nước ly loạn, dân chúng khổ hận dưới ách nô lệ của thực dân Pháp.
Ngoài ra Ông còn là một nhà văn lớn, có nhiều tác phẩm giá trị, để lại trong kho tàng văn học nước nhà, được đánh giá như là gạch nối giữa nên văn chương bác học của các nhà nho khoa bảng đương thời và một văn nghệ sĩ mang tư tưởng hiện đại. Tất cả bàng bạc qua những vở tuồng truyện, tiểu thuyết như Trưng Nữ Vương, Trùng Quang tâm sử, Tái Sinh Sinh, Chân Tướng Quân, Pham Hồng Thái. Nói chung văn chương của Phan Bội Châu, dù viết dưới hình thức nào chăng nữa, thì cũng vẫn là những câu chuyện nói về những người yêu nước, qua bao thế hệ nối tiếp hy sinh trong công cuộc chống giặc Pháp, nhất là đối với những chiến sĩ đã sát cánh cùng ông, qua những nẻo đường lưu vong ở Nhật Bản, Thái Lan, Trung Hoa. Cũng từ đó, ngày nay ta mới cảm thương cho những nam nữ đất Việt, chỉ vì nghe theo tiếng gọi cứu nước, nên đã bỏ tất cả, để dân thân vào phong trào Đông Du, đầy bi thãm hùng tráng. Tất cả từ những con chim đầu đàn như Cường Để, Phan Bội Châu..tới những đảng viên vô danh, đều chịu đủ biển thống khổ của đời người chiến sĩ, lần lượt kế tiếp nhau hy sinh ngã gục, vì sự khủng bố của mật thám Pháp, giặc Tây, sự ngược đãi của nhà đương cuộc Nhật-Tàu, bệnh tật đói rét thường xuyên và ngàn trăm bất hạnh.
Hơn tám mươi năm bị Pháp đô hộ, lịch sử thống trị của thực dân cũng đồng thời là lịch sử của cuộc kháng chiến không ngừng của toàn dân Việt, dù có thay đổi giai cấp lãnh đạo, từ phong trào Cần Vương, Văn Thân , Duy Tân, Đông Du..thì cũng chỉ với một mục đích không bao giờ thay đổi, đó là quyết tâm đánh đuổi cho bằng được giặc Pháp ra khỏi non sông đất Việt, dành lại độc lập cho dân tộc và tiến bộ xã hội.
Ngay từ đầu thế kỷ XX, chính Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng..là những người đầu tiên đã sử dụng văn học làm vũ khí, để cổ vũ tuyên truyền tinh thần yêu nước của toàn dân. Chẳng những thế, chính Phan Bội Châu cũng là người đầu tiên đã dùng hát nói vào dòng thơ văn chính trị, vốn là một nghịch lý và chẳng bao giờ xảy ra từ cuối thế kỷ XIX trở về trước.
Tuy cùng là những văn nhân tài tử nhưng tư tưởng diễn đạt trong các bài hát nói quen thuộc của Phan Bội Châu gần như khác biệt với Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Dương Khuê, Chu Mạnh Trinh và Tản Đà.. dù tất cả đều thể hiện được nét đẹp ngang tàng phóng khoáng.
Với Phan Bội Châu khi sử dụng thể hát nói (27 bài), qua cái hùng tâm tráng chí của người hào kiệt, làm cho người đọc cảm thấy rất gần gũi với nét nho phong tài tử của Nguyễn Công Trứ:
"Đãn ngôn vũ trụ giai ngô sự
Khẳng dữ giang sơn phó bĩ cường
(Đã nói trong vũ trụ đều là của ta
Chẳng lẽ lại đem núi sông phó mặc cho kẻ mạnh - Khuyết danh ).
Đây cũng chính là những khái niệm mới mà Phan Bội Châu và các đồng chí yêu nước sử dụng để tuyên truyền trong khi chống Pháp, khơi gợi tinh thần dân tộc, giống nòi..qua những câu thơ dậy sóng. Tóm lại Phan Bội Châu là bậc hào kiệt muôn đời, sống mãi trong dòng sử của dân tộc, luôn nhận lãnh trách nhiệm trước quốc dân, nên hát nói của Ông không bao giờ dùng để hành lạc như kẻ đương thời, không có mùi vị trích tiên, tài tử hay để cầm, kỳ, thi, tửu, càng không phải vũ trụ giai ngô phận sự', mà là phong cách của một nhà cách mạng, đáng được làm gương cho hậu thế.
NHỮNG TẾT THA PHƯƠNG CỦA PHAN BỘI CHÂU NƠI HẢI NGOẠI:
Trong tâm khảm của mọi người, Phan Bội Châu (1867-1940), là một chiến sĩ quốc gia kiệt xuất, với tinh thần yêu nước nồng nàn, tiêu biểu cho tầng lớp thanh niên nam nữ, qua nhiều thập niên đầu thế kỷ XX, khi tham gia các phong trào chống giặc Pháp cứu nước. Nghiên cứu văn chương Phan Bội Châu, các thế hệ sau này đều ngây ngất trước những dòng thơ dậy sóng, tâm huyết, xúc cảm, gần như đã đạt tới phong cách chân thiện mỹ của mọi thời đại. Theo sử liệu, những năm cuối thế kỷ XIX , tình hình đất nước thật bi thảm, hầu hết các phong trào chống Pháp lần lượt bị tan rã, từ những cái chết oanh liệt của Cao Thắng, Đinh Công Tráng, Phan Đình Phùng, Mai Xuân Thưởng..nên dường như chỉ còn có lực lượng của Hoàng Hoa Thám, đang đơn độc chiến đấu trên rừng núi Yên Thế.
Nhưng dân tộc VN vốn có truyền thống chống xâm lăng từ ngàn xưa, nên tầng lớp khoa bảng sĩ phu trong các phong trào Cần Vương- Văn Thân vừa nằm xuống, lập tức đã có ngay một tầng lớp Nho sĩ trí thức trẻ tuổi đầy nhiệt huyết, đứng lên kê vai gánh vác trách nhiệm còn dang dở của cha anh. Đó chính là những phong trào Duy Tân, Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Việt Nam Quốc Dân Đảng...ngay từ đầu thế kỷ XX..cho tới khi giặc Pháp bị đánh đuổi ra khỏi non nước Việt.
Trong bối cảnh đó, từ năm 1905 Phan Bội Châu đã bắt đầu một cuộc đời bôn ba nơi hải ngoại, hết Thái Lan (Xiêm La), Trung Hoa tới Nhật Bản , ở đâu cũng là kiếp sống không nhà. Trước khi bước chân xuống tàu xa cố quốc, Phan Bội Châu làm bài thơ thất ngôn bát cú 'Xuất dương lưu biệt' với lời lẽ hào hùng, tư tưởng mới mẻ, nói lên quyết tâm ra hải ngoại tìm đường cứu nước, của nhà cách mạng trẻ tuổi trí thức xứ Nghệ.
"Nhất phiến hoa phi giảm khước xuân", khúc mở đầu cái triết lý sống vui, sống vội mà Đỗ Phủ đã nhắc tới từ ngàn năm trước. Đây cũng là quan niệm chung của thế nhân, đứng trước sự đổi thay của thời gian, bởi mỗi năm mỗi tuổi như đuổi xuân đi. Vì vậy hầu hếu đều cố tìm cách hưởng lạc, kẻo thời gian qua mất vì tuổi già chẳng đợi chờ ai. Nhưng đối với Phan Bội Châu, thì những năm tết nước người, coi như không biết thế nào là hoa pháo và niềm hạnh phúc gia đình. Hỡi ôi đời người, dù là ai chăng nữa, chắc hẳn sẽ không khỏi có giây phút chạnh lòng, nhất là trong cái giờ khắc thiêng liêng, lúc năm cũ gần tàn, khi mọi nhà đều chặt cửa cài then, đề cười vui hạnh phúc, đón mừng năm mới. Chính trong giây phút này, những kẻ bơ vơ không nhà cửa, mới cảm thấy lạc lõng trơ trọi giữa bóng tối vả đêm mưa lạnh lẽo nơi đất lạ quê người. Đây chính là cảnh buồn của lính trận và những người nhà Cách mạng Quốc gia, trong giây phút cuối cùng của ngày tàn tháng tận, họ làm gì có được một chỗ đứng, dù nhỏ nhoi, trước bàn thờ tiên linh để mà sụt sùi giọt thương niềm nhớ.
Lại một tối ba mươi tết nửa sắp qua, mà ta và còn hằng triệu người vẫn không nhà không cửa, phải yên lặng nép mình bên hiên người trong cô đơn hiu hắt như từ trăm năm trước, Phan Bội Châu và các chiến sĩ quốc gia trong phong trào Đông Du từng cảm nhận, qua nhiều năm bôn ba khắp các nẻo đường hải ngoại.
Theo sử liệu, lúc bấy giờ trong đoàn người nam nữ dấn thân cứu nước có hơn vài trăm người, ai cũng đều chứng kiến được nổi gian truân khốn khổ của đời tha phương hoài cố quốc. Các sự kiện lịch sử trên đã đuợc Sào Nam ghi lại một cách cảm động trong Phan Bội Châu niên biểu và một bài ký sự đặc biệt đăng trên báo Phong Hóa Ngày Nay, của Tự Lực Văn Đoàn vào năm 1939.
... Cuối tháng chạp (12) gần sắp Tết Tân Hợi (1911), đang lúc mọi người hờ hững đợi một thêm một xuân tha hương trên đất Xiêm La, thì cuộc cách mạng lật đổ nhà Mãn Thanh trên đất Tàu đã thành công. Do đó, các lãnh tụ Trung Hoa Quốc Dân Đảng như Tôn Văn, Hoàng Khắc Cường..muốn giúp đỡ các chính khách VN, nhất là Phan Bội Châu.
Nhưng từ Xiêm muốn qua Tàu lúc đó, tiền lệ phí không phải là ít, khi mặt thật tài chánh tại đồn điền Bạn Thầm, thu góp chung chỉ đếm được 30 bạc.
Số tiền này theo thời giá lúc đó, cũng chỉ đủ để Phan Bội Châu và Đặng Tử Mẫn mua vé xe lửa tới Vọng Các mà thôi. Cuối cùng hai nhà cách mạng VN đã phải dùng khổ nhục kế "Hành Khuất", để còn số tiền 30 bạc, mua hai vé tàu thủy tới Hương Cảng. Thời gian rời Bạn Thầm đúng 29 Tết, Phan Bội Châu tói Quảng Đông vào những ngày đầu tháng giêng năm Quý Sửu (1912) để kịp thành lập VN Quang Phục Hội, trên đất Trung Hoa.
Hơn 100 năm trước, hàng hàng lớp lớp những người trẻ tuổi, mà Phan Bội Châu ví như một con chim đầu đàn, lớp chết lớp kế tiếp nhau vào tù ăn tết ở trong tù hay bị giam lỏng mãn đời trong tử địa.
Cho dù năm tháng trôi qua nhưng tinh thần của các Chí Sĩ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Xuân Ôn vẫn danh thơm muôn thuở .
Bài ca chúc Tết thanh niên. (Thơ Chí Sĩ Sào Nam Phan Bội Châu)
Dậy! Dậy! Dậy!
Bên án một tiếng gà vừa gáy
Chim trên cây liền ngỏ ý chào mừng
Xuân ơi xuân, xuân có biết hay chăng?
Buồn cùng sông, thẹn cùng núi, tủi cùng trăng
Hai mươi năm lẻ đã từng chua với xót
Trời đất may còn thân sống sót
Tháng ngày khuây khoả lũ đầu xanh
Thưa các cô các cậu lại các anh
Trời đã mới người càng nên đổi mới
Mở mắt thấy rõ ràng tân vận hội
Ghé vai vào gánh vác cựu giang san
Đi cho êm, đứng cho vững, trụ cho gan
Dây đoàn thể quyết ghe phen thành nghiệp lại
Ai hữu trí từ nay xin gắng gỏi
Cởi lốt xưa mà tu dưỡng lấy tinh thần
Chẳng thèm chơi, chẳng thèm mặc, chẳng thèm ăn
Đúc gan sắt để dời non lấp bể
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ
Mới thế này là mới hỡi chư quân
Chữ rằng “nhật nhật tân, hựu nhật tân”
Nghĩa là : “ Ngày một mới , mỗi ngày một mới , lại mới hơn .”
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn