CHƯƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU QUÂN SỬ - QUÂN LỰC VNCH : QLVNCH NỔ LỰC NGĂN CHẬN CỘNG QUÂN TẠI TIỂU KHU BÌNH TUY VÀ TRẬN LONG AN - THỦ THỪA QUÂN ĐOÀN IV VNCH .

22 Tháng Tư 20216:54 CH(Xem: 3666)
(1211)
[Những trận đánh trên đất phù sa - Quân Đoàn IV VNCH]
Trận Đánh của Địa Phương Quân - Nghĩa Quân VNCH , Quận Thủ Thừa Tỉnh Long An .( 9/4/1975 - 11/4/1975 )
Quận Thủ Thừa , tỉnh Long An, nằm dọc theo Quốc lộ 4 khi nhìn về bên phải từ hướng Sài Gòn đi xuống qua quận Bến Lức. Thời điểm này xảy ra vào nhừng ngày cuối tháng Ba, năm 1975 khi Ban Mê Thuột vừa thất thủ, áp lực của cộng quân CS đè nặng trên khắp 4 vùng chiến thuật. Bộ Chỉ huy Chi khu Thủ Thừa đang ngăn chận đường dây xâm nhập của địch từ vùng Mỏ Vẹt, Ba Thu và Kiến Tường...
Giờ này quân đội của CS đã tràn xuống - trận đánh mở màn .
Chủ lực Cộng sản nằm bên kia biên giới Cao Miên - Cam Bốt - CamPuChia , nhưng một bộ phận chính đang nằm ở phía bắc xã Long Ngãi Thuận .
Đêm 8 rạng 9 tháng 4 năm 1975, một lực lượng cộng quân đánh vào tỉnh Long An chiếm phi trường Cần Đốt, một lực lượng khác đánh vào bên hông tỉnh chiếm xã Lợi Bình Nhơn của Thủ Thừa.
Cuộc chiến bắt đầu - Quả là sau những toan tính của con người có thiên định. Hai cánh quân CS đánh vào Long An chỉ là để dương đông kích tây để cầm chân quân tiếp viện. Chủ lực địch là công trường 6 (sư đoàn - thực ra cái lối hù của cộng sản - chúng gọi là sư đoàn nhưng quân số chỉ bằng trung đoàn của VNCH ) nằm phía sau cách quận 5 cây số. Chúng tung từng toán đặc công tinh nhuệ, táo bạo đánh thẳng vào hông quận qua ngã chợ. Chúng dự tính giết quận trưởng xong và chiếm Bộ Chỉ huy Chi khu là chúng kéo cờ lên, đại quân của chúng sẽ tràn ngập, và với khí thế đó, quân ta phải tan hàng như ở miền Trung.
Có thể Đức Tiền quân Nguyễn Huỳnh Đức đang an nghỉ trên mãnh đất này đã thương cho cái công khó nhọc của đám quân dân quận nhà, nên Ngài mới tạo ra những cơ may hy hữu. Bọn cộng sản đã điều nghiên kỹ càng là không bao giờ đoàn tàu đi tuần lại về đậu ở đó trước 6 giờ sáng, nếu chúng đánh vào quận giờ đó thì gần như là lổ trống, chỉ thọc bộc phá , kích nổ phá hàng rào kẻm gai dễ dàng xung phong .
Không may, điều nghiên đúng, nhưng sai cho ngày hôm đó, vì nước thủy triều cao, đoàn tàu về bến lúc gần sáng, đúng lúc đặc công CS di chuyển đến nên vô tình chúng đã bị đụng độ. Không chịu nổi những khẩu đại liên bên thành tàu, toán đặc công CS đành lẩn vào dân, chạy dạt ra chợ.
Ba đêm trước, toán đặc công CS đã điều nghiên và thả lục bình để đánh chìm tàu, chiếc tàu đi tuần về đậu chệch trên bãi, phía trước đám lục bình mà CS đã dấu mìn. Đặc công cộng sản cố vượt bóng đêm đẩy lục bình ngược con nước để đẩy đám lục bình tấp vô thành tàu. Lính gác VNCH nhanh trí thấy lục bình trôi ngược nước bèn nổ súng. Biết bị lộ, tên đặc công CS trên bờ đã hy sinh hai tên dưới nước bằng cách phải cho nổ quả mìn. Tiếng nổ như trời gầm làm hoảng hồn , các binh sĩ VNCH phóng mình ra khỏi hầm.
Như vậy là cái may thứ nhứt đã giúp cho Bộ Chỉ huy Chi Khu thoát chết.
Cái may thứ hai : theo thường lệ, Đại úy Khánh, Trưởng Ban 3 ra lệnh cho 200 lính Nghĩa Quân về quận nhận lệnh đi phát quang xạ trường, tránh không cho cộng quân ẩn núp. Khi toán đặc công CS dạt ra chợ thì trong quận đã có 200 lính với súng đạn sẵn sàng, Đại úy Khánh chỉ việc điều động cho đánh, công việc nhịp nhàng như ông Trời xếp sẵn .
Tình trạng tấn công tràn ngập đã không xảy ra, vì tất cả những chuẩn bị trước đã nhịp nhàng ăn khớp. Từ trong hàng rào phòng thủ, Đại úy Lộc ra liên lạc với đơn vị Thủy Quân Lục Chiến mới về tăng phái, phóng mình lên đoàn tàu trực chỉ nhà máy gạo Ba Bài. Trung đội trừ bị chiếm cây xăng.
Bộ Chỉ huy Chi Khu với Nhất kiếm (Ban 1), Nhị hà (Ban 2), Tam sơn (Ban 3), Tứ hải (Ban 4) , Ngũ hổ (Ban 5) và Lục bảo (Ban 6) phân tán ngay vào các cánh quân chiến đấu trong đường phố.
Lệnh điều động từ nhiều máy phóng thanh thuộc Chi Tin tức Quận ra lệnh cho tất cả tàu bè dời về phía bên này sông, không cho địch chiếm để vượt sông.
Nói là con sông thì hơi quá, nó chỉ là con kinh bề ngang 100 thước nằm ngang quận. Vài tên đặc công CS chạy lạc vào Thánh Thất Cao Đài đã bị lực lượng chiếm cao ốc hạ sát ngay.
Cả toán còn lại bị dồn vào trong rạp hát. Chúng tử thủ bên trong. Cảnh sát dã chiến và tổ tình báo Chi khu đã trổ nóc đánh xuống, giết một mớ và bắt sống trọn ổ. Thiếu tá Tống, Chỉ huy trưởng Cảnh sát tỉnh, đích thân chở tù binh về khai thác.
Trong khi đó tình hình ở tỉnh cũng lắng dịu, lực lượng cộng quân đã bị đánh văng khỏi phi trường Cần Đốt...
Vĩnh Đường - vô tuyến của Đại tá Tiểu khu trưởng gọi BCH Chi Khu báo Công trường 5 CS ở sau lưng , nên cho 2 tiểu đoàn ĐPQ xuống tăng cường, dàn quân thanh toán bọn chúng.
Vừa chiến thắng trận đầu lại bảo toàn được chủ lực, lòng mọi người vui sướng vô cùng.
Đại tá Cục phó Cục Quân y cũng xuống ủy lạo thương binh...
Cuộc giao tranh tiếp tục ...
Hai Tiểu đoàn ĐPQ bây giờ đổ xuống ngập chợ.
Cả cái quận lỵ nhỏ bé chứa toàn là lính. Lấy văn phòng quận làm tâm điểm, một tiểu đoàn cánh trái, một tiểu đoàn cánh phải lần lượt qua sông dàn quân xuất phát.
Từ trên nóc công sự phòng thủ Bộ Chỉ huy Chi Khu phối hợp liên lạc với cả hai cánh quân. Trên 600 người lính dàn hàng ngang đã tạo một chiều dài cả cây số.
Chưa có lệnh tiến quân vì khi xã Lợi Bình Nhơn thất thủ, Chi khu đã ra lệnh cho Đại úy Hải, Đại đội trưởng Đại đội Biệt lập vượt sông Vàm Cỏ về làm tuyến án ngữ phía cầu Long An để chận đặc công cộng quân có thể xâm nhập phá cầu, đồng thời cũng để dò xét dọc sông Vàm Cỏ xem cộng quân có ém quân ở đó không. Hai chạm súng lẻ tẻ chứng tỏ chỉ có du kích quân chận mình.
Đây là lúc hai tiểu đoàn được lệnh xuất quân. Trời tháng Tư, chưa vào mùa cày cấy, đất còn khô và nứt nẻ. Những thửa ruộng bỏ trống đã làm cho quân ta có xạ trường quan sát rất xa. Hai cánh quân liên lạc hàng ngang tiến song song.
Từ trên lô cốt, Bộ Chỉ huy Chi Khu theo dõi bằng mắt và giữ liên lạc máy với hai Tiểu đoàn trưởng.
Quân đi khoảng 800 thước thì bắt đầu chạm địch. Điều khủng khiếp nhất là chạm súng trên một tuyến dài cả cây số, hỏa lực địch mạnh đến nỗi đạn cày dưới chân như đàn dế rúc. Đủ loại súng mạnh, cối 61, cối 82 và 130 ly choảng liên hồi về phía quân bạn.
Quân VNCH chỉ chống trả bằng những vũ khí cá nhân, và là khu dân chúng nên không thể dùng hỏa lực pháo binh.
Không thể ngờ được- Sau những đợt hỏa lực dũng mãnh, cộng quân bắt đầu xung phong và tràn ngập.
Chúng ùa lên đen cả cánh đồng trước mặt, cuộc cận chiến không xảy ra, nhưng tấn công biển người vũ bão.
Hai tiểu đoàn ĐPQ buộc phải rút về tuyến A. Và chỉ chớp nhoáng là 600 người lính đâm đầu xuống nước. Hai tiểu đoàn tinh nhuệ đã bị địch áp đảo đến nỗi không còn sức phản công.
Điều may mắn cuối cùng là nhờ con sông thiên nhiên chắn lối, nếu không, sự lui quân của hai tiểu đoàn đã lôi theo 60 ngàn dân trong quận Thủ Thừa sẽ thất thủ chớp nhoáng vào tay địch - sững sờ giữa lằn đạn của quân thù. Sự lâm nguy của hai tiểu đoàn làm quên cả sợ chết, nếu không phản ứng kịp thì chỉ trong năm, mười phút nữa cộng quân sẽ tràn đến bờ sông.
Chúng sẽ tha hồ xả súng tiêu diệt quân ta đang loi ngoi dưới sông.
Tuy nhiên, điều may mắn cuối cùng đã đến, cũng do lòng trời còn thương tánh mạng quân dân, thảng hoặc sự linh thiêng của Đức Tiền quân một lần nữa đã xui khiến ra may mắn .
Do con kinh Thủ Thừa ăn thông với sông Vàm Cỏ, tại đây bị ảnh hưởng của nước thủy triều khi lên khi xuống, và nếu gặp nước ròng thì tàu bè xuống thấp, có khi mũi tàu chưa lên cao bằng bờ đất nên vũ khí trên tàu hoàn toàn bất khả dụng.
Trong lúc này vào đầu tháng âm lịch, nước không lên mà cũng không xuống. Nó luôn luôn đầy bờ và giữ nguyên mực. Nhờ vậy , đoàn tàu được che dấu từ cái lạch con tiến ào ra xung trận.
Bộ Chỉ huy Chi Khu ra lệnh rất rõ ràng:"Di chuyển trên sông và tác xạ. Mỗi tàu có 6 đại liên 50. Một bên thành tàu là 3 đại liên. Sáu chiếc tàu tuần giang có 18 khẩu đại liên, mỗi phút có thể nhả 6.000 viên đạn, đã di chuyển hàng dọc trên sông và tác xạ nhịp nhàng. Đại đội trưởng Tuần giang nhận lệnh rõ ràng chiếc nào trúng B40 bị chìm là bỏ, không tàu nào được dừng lại để tiếp cứu tàu nào, tiếp tục xạ kích cho đến khi đẩy lui được địch."
Đại quân của địch CS đang hăng tiết xung phong đến điểm chiến thắng, bất ngờ bị hỏa lực quá mạnh của đoàn Tuần giang làm chúng gục xuống như sung rụng.
Bọn Cộng quân cũng phản ứng nhanh, chúng phản công bằng B40, B41 và các loại súng cối thi nhau nổ trên sông, rơi xuống như mưa bão. May mắn cho đoàn tàu ở thế di chuyển nên chưa chiếc nào trúng đạn, nhờ vậy mà hàng rào hỏa lực đã chận đứng được cuộc xung phong khổng lồ này. Đoàn tàu đã tạo một lưới lửa trên sông. BCH Chi Khu vui mừng đứng trên lô cốt quan sát, liên lạc quên cả nguy hiểm .
Gần một tiếng đồng hồ sau, hai tiểu đoàn ĐPQ mới ngoi lên khỏi mặt đất, tái bố trí và bắt đầu tiến lên để tiếp tục giao tranh với bọn cộng sản . Hai tiếng đồng hồ sau đó địch bị đẩy lui hoàn toàn.
Cám ơn tất cả những đấng thiêng liêng đã cho bọn cộng sản chọn cuộc tấn công lúc nước thủy triều không xuống thấp, đã cho đoàn tàu không bị sức mẻ, sáu cái còn nguyên vẹn và tạo ra một chiến thắng lẫy lừng, cứu được Quận và cứu được 600 mạng lính.
Địch chẳng còn bao nhiêu đã rút thật xa, không lấy được xác, chúng nắm ngổn ngang đầy một cánh đồng. Trận sống mái nghiêng phần thắng về quân ta, làm các đồn bót nức lòng lên tinh thần, các nghĩa quân bắt đầu làm chỉ điểm cho hai con gà cồ 155 ly pháo kích vào những nơi địch quân lẩn trốn. Một quả đạn 155 ly nặng 45 kg, sức nổ tàn phá và sát hại 50 thước vuông. Với sự xác định mục tiêu của các đồn bót, buổi chiều hôm đó QLVNCH đã tác xạ khoảng 800 quả đạn, thương vong của địch lên cao , khó phối kiểm.
Ngày một ngày hai đã đi qua nhanh chóng.
Quận Thủ Thừa vẫn đứng vững - Chiến thắng Thủ Thừa đã bẻ gãy cánh quân Cộng sản thọc sâu phía Tây nam Sài Gòn 49Km - nhằm tạo thêm gọng kiềm áp lực lên Quân Lực VNCH tại Mặt Trận Xuân Lộc - Long Khánh hướng Đông bắc Sài Gòn 80Km , đang bùng nổ dữ dội trong cùng thời điểm.
Trung tuần tháng 4 năm 1975 hai Chiến thắng Xuân Lộc - Long Khánh và Chiến thắng Thủ Thừa-Long An đã đem lại phần nào niềm tin cho người dân, người lính VNCH .
[Những trận đánh trên đất phù sa - Quân Đoàn IV VNCH]
Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 Giang Đoàn Xung Phong ( 16/4/1975 - 29/4/1975 ) Hồi tưởng của một quân nhân trong cuộc chiến .
Đôi Lời Tâm sự của HQ Đại Tá Lê Hữu Dõng .
Được hỏi vể sự thành lập Lực lượng này, các đơn vị trực thuộc, nhiệm vụ và vùng hoạt động… Đại-tá Dõng đã trả lời:
“…Lúc ấy, tôi đang làm Tư-lệnh-phó Lực Lượng Tuần Thám, phụ tá cho Đô-đốc Nghiêm Văn Phú thì được Đô-đốc Chung Tấn Cang gọi về thành lập Lực Lượng Đặc Nhiệm 99. Đó là ngày 08 tháng 4 năm 1975. Trong khẩn cấp, các đơn vị sau đây đã được lấy về, gồm Giang Đoàn 42 Ngăn Chận, Giang Đoàn 59 Tuần Thám, Đại Đội Hải Kích, Địa Phương Quân, một số giang đĩnh lấy ra từ những Giang Đoàn Thủy Bộ, Ngăn Chận và Xung Phong. Kể cả 6 chiếc LCM8 của các căn cứ Yễm Trợ Tiếp Vận. Mấy chiếc chiến đĩnh Zippo phun lửa nữa… Nói chung, đây là một đại đơn vị gồm rất nhiều loại tàu bè, tất cả là 62 chiến đĩnh, một mũi xung kích mạnh mẽ nhất của Hải Quân Miền Nam lúc bấy giờ.
Về nhiệm vụ, do khẩu lệnh mà tôi nhận trực tiếp từ Đô-đốc Chung Tấn Cang, Tư-lệnh Hải Quân thì Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 gồm những trọng trách sau đây:
Thứ nhứt, Lực Lượng sẽ là đơn vị hậu vệ nặng để bảo vệ Chính Phủ rút về miền Tây, khi tình thế xấu.
- Thứ hai là bảo vệ an ninh thủy trình sông Soài-Rạp và sông Lòng-Tào nếu Hạm Đội phải rời Sài Gòn ra biển.
- Và thứ ba là bảo vệ Bộ Tư-Lệnh Hải Quân, nếu có đảo chánh xẩy ra.
Do đó vùng hoạt động của Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 không nhất định.”
Đại-tá Dõng thong thả nói tiếp: Trong nhiệm vụ của tôi, của Lực Lượng Đặc nhiệm 99, chúng tôi phối hợp với các đơn vị bạn để ngăn chận bước tiến của địch ở mặt Tây-Nam Sài-Gòn. Cụ thể là bằng mọi giá phải chận đứng bước tiến của các Công-trường 9, Cộng-trường 7 và Công-trường 5 cùng với tiểu-đoàn Nhái của địch từ các ngả biên giới Miên tràn xuống. Trở ngại của những cánh quân này là 2 con sông Vàm-Cỏ-Đông và Vàm-Cỏ-Tây. Mục đích của chúng gồm 2 bước: Thứ nhứt là cắt đứt quốc lộ 4, để Sài-Gòn và miền Lục-tỉnh, Quân-đoàn 4 không thể cứu ứng được cho nhau. Như chúng ta dự trù, khi Quốc lộ 4 bị cắt, chúng ta muốn dời Chính-Phủ về miền Tây, sẽ vô cùng khó khăn. Bước thứ hai, nếu chúng vượt qua và khống chế được 2 con sông Vàm-Cỏ, thì coi như Sài-Gòn đã bị bao vây bốn mặt. Chúng sẽ khóa chặt thủy trình huyềt mạch là sông Lòng-Tào và sông Soài-Rạp, cửa ngõ yết hầu nối Sài-Gòn với cửa biển sẽ bị bít kín. Đa số tàu bè của Hải Quân như những con cá kình mắc cạn, ta sẽ vô phương xoay trở. Nhưng với sự hiện diện của Lực-Lượng Đặc-Nhiệm-99, ý đồ trên của địch đã thất bại.”
Những trận chiến ác liệt trong vùng trách nhiệm, đã được Đại-tá Dõng nhớ lại :
“Sáng ngày 16 tháng 4, khi đoàn chiến đĩnh của Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 trên đường giải tỏa áp lực địch trên kinh Thủ-Thừa, chúng tôi thấy ở bên kia bờ rạch Cần-Đót, có rất đông người đang tắm. Lấy ống nhòm quan sát, mới hay đó là một đơn vị địch. Tôi cho lệnh đoàn tàu ủi thẳng sang, tấn công. Chúng chấp nhận giao chiến, không chạy. Hai bên cách nhau rất gần, trên dưới 10 thước mà thôi. Sức phản công của chúng rất dữ dội, gồm nhiều loại súng lớn rất ác liệt, như 82 ly không giựt, 12ly8. Phía các chiến đĩnh của chúng ta được một phen đáp ứng ngon lành. Tôi còn nhớ anh Đức, một thủy thủ, bị thương ở mặt và ở đầu, máu tuôn xối xã, nhưng anh Đức chỉ lấy tay vuốt máu trên mặt, đứng thẳng trên nóc chiến đĩnh, ôm khẩu MK19 nã thẳng vào đối phương. Trận chiến kéo dài suốt ngày. Phía ta có các đơn vị Bộ binh và Địa phương quân đến tiếp ứng. Tới 5 giờ chiều địch rút. Trong trận này phía chúng ta thiệt hại nhẹ. Phía địch thiệt hại không dưới một tiểu đoàn. Vũ khí ta thu được gồm 4 khẩu 82ly, 2 khẩu 12ly8, 12 khẩu B40 và rất nhiều súng AK cùng súng trường Nga.”
Vẫn theo lời kể của Đại-tá Dõng:
Ngày 20 tháng 4, mặt trận Xuân-Lộc vỡ , Sài-Gòn đã thực sự bị đe dọa. Sài-Gòn kể từ ngày đó, quả là những ngày hấp hối.
“ … Kể cũng thật ghê gớm. Vẫn tại Cần-Đót, hôm trước chúng ta giải tỏa, hôm sau địch lại kéo tới, đông hơn. Các chiến đĩnh của ta đụng địch liên tục. Tôi còn nhớ một chiếc Monitor của Giang Đoàn 42 Ngăn Chận bị trúng 82ly không giựt trực xạ, khiến 3 nhân viên và Thiếu tá Phạm Ngọc Lộ, khóa 12, chỉ huy trưởng, bị thương. Máu đầy mặt, nhưng tất cả vẫn ở trong các ổ súng, tiếp tục bắn. Cứ như thế, ta và địch giằng co, ’gặp nhau’ đều đều. Trong khi đó, pháo 122ly của địch hàng ngày câu hàng trăm trái vào Long-An, gây rất nhiều đổ nát, thương vong cho dân chúng. Đạn rơi cả vào nhà thương, khiến những người đã bị thương lại bị thương một lần nữa. Thân nhân của họ vội tản thương khỏi nhà thương.
Sư Đoàn 22 Bộ Binh, từ miền Trung di tản về đang được tái trang bị, dưới sự chỉ huy của tướng Phan Đình Niệm, đem một Trung-đoàn ra giải tỏa áp lực địch tại Cầu-Voi, nhưng áp lực địch vẫn rất nặng nề.
Ta và địch giằng co nhau nhưng Cầu-Voi vẫn không bị phá, giao thông trên quốc lộ 4 nhiều lúc khó khăn nhưng không hề bị cắt, vì được người Nhái của ta ngày đêm tận tình bảo vệ. Những phen Nhái ta và Nhái địch quần nhau ở chân cầu Long-An đầy cam go, hồi họp. Rồi lợi dụng đêm tối, Nhái của chúng lội ra giữa sông, leo lên các chiến đĩnh của người Nhái ta, nhưng chúng ta đã phát giác kịp thời., tất cả Nhái của địch đều bị Nhái của ta hạ sát khi vừa xuất hiện bên mạn chiến đĩnh, chìm mất xác dưới lòng sông.
Cũng chính vì thế các chiến đĩnh không bao giờ được neo ngủ, phải luôn luôn di động và dùng lựu đạn ném quanh tàu. Nhiều chi tiết rất khiếp đảm trong việc chống lại người Nhái địch, nói ra không hết. Một thủy thủ đứng gác trên nóc chiến đĩnh bỗng thấy mặt nước khua động, rồi một cái đầu ló lên, một cách tay bám vào mạn chiến đĩnh, rất nhanh như một phản xạ, một trái lựu đạn được quăng xuống nước, nổ ục, tung một quầng nước lớn đỏ thẫm những máu. Tên Nhái địch buông tay, chìm. Mặt nước lại lững lờ trôi như không có gì xảy ra. Đêm cũng như ngày, có thể nói sự nguy hiểm có mặt ở sát bên mình.”
Bằng một giọng hoài nghi, Ông nói:
“Không biết tụi nó tưởng tàu mình bằng giấy bồi, lính của mình là lính gỗ chắc. Hết Nhái của tụi nó bơi ra, lại có cả những ghe gỗ, chở lính, cũng cứ nhào ra, một lúc mấy chiếc. Chúng dùng đủ loại súng bắn vào các chiến đĩnh của ta. Đạn súng nhỏ bắn vào thành chiến đĩnh rào rào như mưa. Chúng ta phản pháo bằng súng thường không xuể. Các ghe chở đầy lính của địch lại túa ra. May mà hai chiếc Zippo vừa nạp đầy nhiên liệu, loại xăng đặc dùng cho bom Napalm, đã sẵn sàng. Hai chiếc Zippo, dưới sự bảo vệ của các chiến đĩnh khác, tiến sát vào bờ, lưỡi lửa phun ra dài cả trăm thước. Trong nháy mắt cả một vùng bờ cây xanh từ gốc tới ngọn cháy rực, gãy đổ, lửa khói bốc cao, khét lẹt. Từng lớp người ở sát bờ sông ngã ra, tràn xuống mặt nước. Các đợt xung phong dại dột của địch khựng lại, phòng tuyến địch rối loạn. Nhưng quân trên bờ của địch, người ở đâu vẫn đen đặc, kêu thét chạy tán loạn, đặc nghịt. Phòng tuyến của chúng vỡ. Ông Tỉnh-trưởng Trần Vĩnh Huyến chứng kiến cảnh này, lắc đầu. Ta không đủ quân để lên bờ thu chiến lợi phẩm. Nhưng thiệt hại của chúng không dưới một tiểu đoàn. Sau trận ‘hỏa công’ này, mặt trận hai con sông Vàm-Cỏ trở nên yên tĩnh. Có lẽ nhờ thế chúng đã không thể nào vượt qua 2 con sông Vàm-Cỏ, để áp đảo Sài-Gòn. Nhìn mấy chiếc ghe cháy xám, trôi lềnh bềnh, đúng là những chiếc thuyền ma, lòng vừa giận, vừa thương, vừa hú vía…”.
Lau mồ hôi và thở một hơi dài, Đại-tá Dõng lại tiếp:
“Mấy ngày sau, mặt sông có những xác người trôi đen đặc. Mùi tử khí bay nồng nặc. Nghĩ lại cuộc chiến thật đau lòng…” Vẫn lời của Đại-tá Dõng: ”Đó là một trong những cuộc tao ngộ chiến, mà Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 đã cản đường tiến của đoàn 232, tương đương với 1 Quân Đoàn, do tướng Lê Đức Anh chỉ huy, nằm ém quân bất động ở ngã ba sông Vàm-Cỏ, đợi sẵn khi có thể là vượt sông, tiến vào Sài-Gòn. Tại đó, Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 lúc nào cũng có 6 chiến đĩnh hiện diện. Vậy mà chúng nín khe, suốt mười mấy ngày không một tiếng súng bắn ra. Bây giờ cuộc chiến đã tàn. Mọi việc đã nhạt nhòa như không có thực. Nhưng giả thử Cộng quân không bị cản đường, chúng qua được sông Vàm-Cỏ, nằm sẵn ở 2 bên sông Lòng-Tào và Soài-Rạp, khi đoàn tàu thuyền trong đêm 29 rạng 30 tháng 4, chở đầy quân, dân, đàn bà và trẻ con túa ra biển, những điều gì đã phải xẩy ra. Với hỏa lực của mấy sư đoàn địch trên bờ và mấy trăm cổ hải pháo trên các chiến hạm cùng thi nhau nhả đạn, hai con sông Lòng-Tào và Soài-Rạp chắc chắn sẽ là hai con sông kinh hoàng ngập máu, sẽ tàn khốc và rùng rợn nhiều lần hơn Đại Lộ Kinh Hoàng trong mùa hè Đỏ Lửa 1972”.
“Khi đoàn chiến hạm ra đi, Đại-tá có được thông báo không”.
Đại-tá Dõng đáp:
“Có chứ. Trước khi hạm đội khởi hành. Đô-đốc Cang có hỏi tôi là an ninh thủy trình sông Lòng-Tào và sông Soài-Rạp ra sao. Tôi xác nhận là an ninh tốt. Rồi trong đêm 29 tháng 4, Đô-đốc Cang đã 2 lần nhờ Đại-tá Cổ Tấn Tinh Châu, Chỉ-huy-trưởng Đặc Khu Rừng Sát và Trung-tá Dương Hồng Võ tìm tôi, kêu tôi hãy mau rời vùng hoạt động, ra khơi với đoàn tàu.”
Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 vào phút chót ra sao ?
“Lúc đoàn tàu ra khơi, tôi còn lênh đênh trên ngã ba sông Vàm-Cỏ. Vẫn cố giữ sự hiện diện của mình ở đây để cản đường tiến của địch, như nhiệm vụ đã được thượng cấp giao phó. Nếu chẳng may mà kẹt lại thì cũng đành vậy, rồi liệu sau. Có điều lúc ấy, đâu đã rõ tình hình ra sao. Đại-tướng Minh đâu đã đầu hàng.
Trên bờ thì khác, chứ trên sông nước, mình vẫn còn bảnh lắm… Rồi như chúng ta đều biết, hôm sau, 30 tháng 4, trước khi ông Minh ra lệnh đầu hàng mấy phút, tôi trở lại Long-An, nhà Ba tôi, đón hai đứa con tôi. Cho đến 16 giờ hôm ấy, 30 tháng 4, tất cả chiến đĩnh thuộc Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 đều có mặt tại ngã ba sông Soài-Rạp. Bên cạnh tôi có Đại-úy Hải CHT/GĐ59 Tuần Thám, tôi đích thân ra lệnh giải tán Lực Lượng. Tôi đã nghẹn lời có nói một câu ngắn rằng: ‘Hẹn gặp lại anh em…’
“Chắc ông có bùa Miên, nên đạn đã tránh ông”. Đại-tá Dõng cười đáp:
“Đâu có. Nhiều lần tôi đã bị thương. Nhưng lần đi trận cuối, và bị thương lần cuối là ngày 17 tháng 4 năm 1975, tại Long-An. Nhẹ thôi. Cũng không biết mình bị bắn lúc nào. Một mảnh đạn nhỏ ghim vào ngực bên trái. Hồi 9 giờ 15, hay tin tôi bị thương, Đô-đốc Phú đã phóng PBR lên tại mặt trận thăm tôi, hỏi tôi có chịu đựng được không. Lúc đó vì đang đụng nặng, tôi đã vui vẽ đáp là không có gì, chỉ biết là bị thương ở ngực thôi, và bị rát quá, máu ra chút đỉnh thôi. Khi mặt trận đã vãn, tôi về đến nhà, nên nhớ là nhà tôi ở Long-An, Bác-sĩ Truyền đã cứu chữa cho tôi ngay, lấy viên đạn ra. May là viên đạn không vào sâu bên trong. Tôi có báo cáo cho Đô-đốc Cang, nhưng Trung-tá Vĩnh Giang, bạn cùng khóa nghe tin, liền thông báo cho các bạn là tôi bị thương nặng, sắp chết. Vết thương này, cả tháng sau, khi đã ra khỏi trại Indiantown Gap, mới thực sự bình phục.”
Vẫn lời Đại-tá Dõng:
“Sau khi giải tán Lực Lượng 99, tôi và Đô-đốc Phú dự định dùng 2 chiếc PCF để ra đi, cuối cùng HQ 402 đi qua. Anh em trên tàu thấy chúng tôi trên LCM8, nên kêu gọi, tôi lên HQ402, sau tôi mời Đô-đốc Phú lên. Trên HQ402, tôi và ông sau 2 ngày nhịn đói, ăn chung một đĩa cơm do Thượng-sĩ Võ Văn Hiếu đưa lên. Rồi ông từ giã tôi lên Soái Hạm, ông không nói gì, nhưng ánh mắt ông nhìn tôi như nói lên tất cả, tánh ông thế...
Đại-tá Dõng nói thêm:
“Có một chuyện ít ai biết là chiều ngày 29 tháng 4, tôi và Đô-đốc Phú ngồi trên một PBR đậu tại bến đò Long-An. Cầu Long-An, thị xã Long-An chưa lọt vào tay địch. Tại đây chúng tôi đã làm được 2 việc như sau: Thứ nhứt là khi ra lệnh cho Liên Đoàn Đặc Nhiệm ở Gò-Dầu-Hạ, Thiếu-tá Sơn có hỏi tôi, có ông Quân-trưởng Gò-Dầu-Hạ xin tháp tùng, có cho đi không. Tôi đáp chở hết và đánh đắm tất cả các chiến đĩnh hư hỏng, đi vận tốc tối đa ra sông Soài-Rạp. Sơn hỏi ‘Lệnh của ai’. Tôi đáp có ‘một sao’ ngồi đây. Đô-đốc Phú cười. Lần đầu tiên trong đời tôi thấy ông cười. Và đoàn giang đĩnh Gò-Dầu-Hạ đã ra đến Soài-Rạp an toàn trưa ngày 30 tháng 4. Nếu Liên Đoàn Đặc Nhiệm ở Tuyên-Nhơn của Thiếu-tá Lê Anh Tuấn lên máy liên lạc với tôi, tôi cũng sẽ bảo đi như Gò-Dầu-Hạ. Tiếc thay! Thứ hai là, cho đến phút chót, chúng tôi vẫn giữ đuợc trật tự, an ninh trên tất cả chiến đĩnh thuộc Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 và cho Đại Đội Tuần Giang và Giang Cảnh Long-An tháp tùng ra sông Soài-Rạp. Tiếc rằng Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu và Ông Tỉnh-trưởng Long-An từ chối không ra đi, ở lại. Một điều nữa là cho đến giờ này tôi rất yên lòng là suốt thời gian đụng nhiều trận nặng, trước những đợt tấn công ào ạt biển người của địch, như đã mô tả ở trên, nhưng chỉ có mấy anh em bị thương (khoảng 5 người) mà không mất mát người nào, cho đến khi tôi lên HQ402, giã từ nhiệm vụ Chỉ huy Lực Lượng Đặc Nhiệm 99.”./.
[Nỗ lực đánh chận CS của QLVNCH tại Tiểu khu Bình Tuy- Quân Đoàn III VNCH ]
Đầu tháng 04 năm 1975, Tiểu-khu Bình-Tuy được TK/ Bình-Thuận thông báo: Đoàn người di tản từ các tỉnh miền Trung sau cuộc lui binh của vùng II chiến-thuật, đang hỗn loạn tràn vào thị xã Phan Thiết, lẫn lộn trong đó có một số tù nhân trốn thoát, thành phần bất-hảo và cũng có thể CS giả dạng lính QLVNCH bắn, cướp phá gây sợ hãi cho đồng bào tị nạn cũng như dân chúng tại địa-phương và tiếp tục đi về hướng Bình Tuy. Tiểu khu Bình Tuy tức khắc xin QĐ III tăng phái một đại-đội Quân-cảnh, đơn vị QC này làm nút chặn tại ngã ba 46 (ngã 3 vào Bình-Tuy từ Quốc lộ I.
Tiểu đoàn 344/ĐP của Lê phi Ô chiếm giữ các cao điểm xung quanh để bảo vệ QC làm nhiệm vụ tước khí giới những quân-nhân thất lạc đơn vị và bất cứ ai có vũ-khí trong đoàn người di-tản, những đơn vị còn sĩ quan chỉ huy thì được giữ lại vũ khí và chờ lệnh Quân-Đoàn III, Tiểu đoàn 341/ĐP của Đ/U Lê Hùng phối hợp với Quân cảnh để ngăn ngừa cướp phá và được lệnh bắn hạ bất cứ ai có vũ-khí mà không tuân theo lệnh QC, vì thế chỉ trong 3 ngày với nhiều đoàn di tản vào Bình-Tuy ước độ gần 300 ngàn người nhưng rất trật tự tiến vào thị xã La-Gi (hoàn toàn có trật tự từ cửa ngỏ vào Bình-Tuy cho đến khi được xà lan di chuyển hết về Vũng Tàu, 10 ngày mới hoàn tất).
Tiểu khu BT lúc đó còn 4 tiểu đoàn ĐPQ: TĐ344/ĐP Lê-Phi-Ô tiểu-đoàn trưởng, giữ phi-trường và đồi Hoa-Sim nơi đặt hai khẩu Đại bác 105 ly (hướng tây của BCH/TK và cách 500m). Tiểu đoàn 341/ĐP, Đ/U Lê-Hùng TĐT phối trí song song với TĐ của LPO về phía phải của phi trường… cả hai Tiểu đoàn có nhiệm vụ ngăn chận địch từ hướng Quốc lộ I tràn vào Bình-Tuy. TĐ 369/ĐP, Đ/U Hoàng-Quyền TĐT (tử trận khi rút lui) ngăn chận địch từ hướng núi Tà Cú (hướng Phan-Thiết), Tiểu đoàn 370/ĐP, Th/tá Lê-Kim-Lai TĐT, ngăn chận địch từ hướng Tỉnh Phước-Tuy và bảo vệ hướng lui binh của toàn Tiểu-khu. Các đơn vị này hoạt động ngày đêm để phát hiện địch từ xa và bảo vệ sinh mạng tài-sản của đồng bào chưa kịp di tản. Một Trung-đoàn của SĐ 22/BB còn sót lại được tăng phái cho Tiểu khu Bình Tuy, Tr/tá Danh Trung-đoàn trưởng với quân số không đầy đủ.
Theo kế hoạch A khi di-tản chiến-thuật thì Tr/đoàn của Tr/tá Danh và TĐ344/ĐP của Lê phi Ô sẽ là mũi xung kích mở đường máu về hướng Vũng-Tàu cặp bờ biển hoặc đường rừng đi Xuyên-Mộc (tùy trường hợp), TĐ 341/ĐP của Lê-Hùng sẽ bảo vệ Bộ chỉ huy Tiểu-Khu và các Tiểu-đoàn 369/ĐP, Tiểu-đoàn 370/ĐP giữ nhiệm vụ chận hậu. Riêng Đại đội 512 và 513/Trinh-sát (Bình-Tuy có 2 đại-đội Trinh-Sát) thì tìm địch từ xa hướng QL I, đồng thời trong ngày 21/04/1975 Bộ chỉ huy Tiểu-khu được Thiếu Tướng Lê-Minh-Đảo Tư-lịnh Sư-đoàn 18BB cho biết , Ông đã rút quân rời Xuân Lộc về phòng thủ vành đai Sài Gòn . Tiểu-khu Bình-Tuy coi như hoàn toàn đơn độc ! Tuy thế chúng tôi vẫn sửa soạn cho một cuộc tử-thủ vì chưa nhận được lệnh lui binh.
Ngày 22/4/1975 Trinh-Sát chạm địch tại ấp Láng-Gòn cách Bộ chỉ-huy Tiểu-khu hơn 4 cây số từ hướng Quốc lộ I đi vào, cộng quân có tất cả 24 xe tăng với Quân số Bộ binh cấp Sư-Đoàn đang tiến vào tỉnh lỵ Bình-Tuy . Trinh-sát lui dần đến cầu Láng-Gòn và chận được đơn vị tiền phương của CS tại đây. Toán Mìn của Trinh-Sát cho gài mìn giựt sập cầu Láng-Gòn để ngăn chận Tank. Suốt ngày 23/04/1975 những đơn vị tiền phương CS không thể nào vượt qua được Đại-đội 512 và ĐĐ513/Trinh-sát tại cầu Láng-Gòn, vì là mùa nắng nên sông Láng-Gòn có chỗ cạn không có nước do đó quân CS đã tìm được chỗ hai bên bờ thoai thoải dốc để Tanks của chúng vượt qua. Bình-Tuy không đủ quân số và hỏa-lực để ngăn cản đà tiến quân của cộng sản .
Lúc 6 giờ chiều CS bắt đầu pháo vào Tiểu-khu, trung tâm Yểm-trợ Tiếp-vận, Căn cứ pháo-binh nơi đặt BCH/TĐ 344/ĐP và sau đó là khắp mọi nơi trong tỉnh lỵ kể cả khu dân cư. Một trận địa pháo khủng khiếp không thua gì ở An-Lộc năm 1972… cả tỉnh lỵ biến thành một biển lửa. Đến 8 giờ tối 12 chiếc xe Tăng T54 với tùng thiết và cả một Trung-đoàn bộ binh theo sau tiến vào Phi-trường nơi tuyến của tôi (TĐ344/ĐP). Chúng tôi không có vũ-khí chống Tank, đại bác 57 ly hết đạn chưa được bồi hoàn, chỉ có 6 khẩu M72 nhưng khi kéo ống phóng thì 3 khẩu bị đứt “giây kích-hỏa” nên không xử dụng được, hai khẩu bắn trúng Tank nhưng chỉ trượt pháo tháp, chúng chỉ khựng lại rồi tiếp tục tiến tới với hỏa lực tối đa. Chúng tôi không ngán Tank nhưng vì bộ binh của chúng quá đông nên tuyến đầu bị bể phải lui về tuyến sau, xe Tanks CS rượt theo hết tốc lực và cán lên cả tuyến sau. Chúng tôi xử dụng lựu đạn để ngăn bộ binh địch trong tình thế tuyệt vọng..!
Gần một giờ quần thảo với Tanks, với hằng ngàn bộ binh địch… chúng tôi chỉ M16 với hai hoả-lực đạn, hai khẩu pháo 105 ly của ta đã bị T54 khống chế, trận chiến bất cân xứng nhưng vì kỷ-luật quân đội, vì danh dự của người lính VNCH chúng tôi phải chiến đấu cho dù sự thất bại khó tránh khỏi. Kết quả bi-thảm đến với chúng tôi: Đại-đội chỉ-huy tan rã, Bộ chỉ-huy Tiểu-đoàn gồm có tôi, các trưởng ban và một số anh em cận-vệ tất cả 12 người chỉ còn sống sót 3 người, những người may mắn đó là tôi (người viết) một anh truyền tin và một anh cận vệ nhờ vào những rảnh sâu do nước mưa xói mòn chúng tôi nằm dưới rảnh khi xe Tăng (Tanks) cán qua.
Quân cộng dã man hơn cả súc vật, những người bị thương đều bị chúng bắn bồi hoặc cho Tank cán qua người, các đại-đội khác của Tiểu-đoàn cũng tan hàng với sức tiến vũ bão của T54 và bộ binh địch cấp Trung-đoàn (trong thời điểm này mỗi tiểu-đoàn của chúng tôi quân số chỉ còn lại 2/3 vì chưa có phương-tiện vận chuyển tân binh bổ sung từ , một số binh-sĩ đào ngủ để lo cho gia đình..v..v..). Tiểu-đoàn 341/ĐP của Đ/U Lê-Hùng cũng cùng chung số phận như TĐ của tôi. Tiếp theo và ngay trên đường nhựa cả đoàn xe hơn 20 chiếc đủ loại chở đầy lính CS và cả chục chiếc T54 chạy thẳng vào tỉnh lỵ. Cả tiểu-đoàn 344/ĐP hơn 300 người (vì chưa được bổ sung) bị Tanks địch xé nát từng mảnh, cả đại-đội chỉ-huy và bộ chỉ-huy tiểu-đoàn giờ đây chỉ còn 3 người, cả 3 anh em chúng tôi băng mình vào trại cưa gần đó, một chiếc T54 rượt theo ủi sập hàng rào nhưng nhờ những cây súc rất to nên T54 khựng lại không tiến lên được. Dưới hỏa lực của T54 và bọn tùng thiết bắn như mưa anh em chúng tôi lao mình trong đêm tối về hướng bìa rừng cách đó 500m tai nghe văng vẳng cộng quân la hét lẫn trong tiếng súng, khói lửa mịt mùng bao trùm cả bầu trời tỉnh lỵ Bình Tuy.
Khi vào đến bìa rừng nơi tương đối an toàn, Tôi (Lê phi Ô) cố gắng liên lạc Trung-tâm hành quân, các đơn vị bạn nhưng tất cả đều không có tiếng trả lời, quay nhìn về hướng BCH/Tiểu-khu… anh em chúng tôi đứng nghiêm đưa tay chào vĩnh biệt trong nước mắt, sau đó súng cầm tay hướng về phía Vũng Tàu chúng tôi lầm lủi trong đêm tối mịt mùng ! Đó là lúc 3 giờ sáng ngày 24 tháng 04 năm 1975./.
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn