[LỊCH SỬ TIỀN CẬN ĐẠI VIỆT NAM - GIAI ĐOẠN THỰC DÂN PHÁP XÂM LĂNG ( 31/ 8/ 1858 ) đến TUYÊN CÁO VIỆT NAM ĐỘC LẬP ( 11/3/1945 )] CÁC XU HƯỚNG CHÍNH TRỊ CỦA GIỚI TÂN HỌC VIỆT NAM : Việt Nam Quốc Dân Đảng - Lãnh Tụ Nguyễn Thái Học và Khởi Nghĩa Yên Bái năm 1930 .

21 Tháng Mười Một 20202:21 CH(Xem: 5751)
Từ vụ ám sât Bazin năm 1929 đến cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930 của Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ)
Ngày nay mỗi khi nói đến tổ chức Việt Nam Quốc dân do Nguyễn Thái Học điều khiển, người ta thường đề cập đến hai vấn đề: vụ ám sát Bazin và cuộc khởi nghĩa ở Yên Bái.
Xét kỹ hai vấn đề này có rất nhiều mối liên hệ quan trọng. Bởi lẽ chính vụ ám sát Bazin đã đem đến nhiều yếu tố thúc đẩy VNQDĐ sớm quyết định tổ chức khởi nghĩa Yên Bái.
Thành lập năm 1927, sau một thời gian hoạt động, VNQDĐ đã thu nhiều thành quả đáng lưu ý về việc phát triển nhân sự bành trướng ảnh hưởng. Và trong khi các hoạt động của đảng trên đà thuận lợi cho việc tạo uy thế cho đảng thì một biến cố quan trọng xảy ra làm sôi nổi dư luận trong nước liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của đảng Việt Nam Quốc dân. Đó là vụ tên chủ mộ phu đồn điền người Pháp tên là Bazin bị giết chết ở Hà Nội.
Đây không phải là vụ giết người thông thường vì tiền bạc, vì ái tình, vì thù hằn cá nhân hay vì cạnh tranh việc làm ăn mà vì lý do chính trị. Thủ phạm là người bản xứ thuộc một tổ chức chính trị chống Pháp, nạn nhân là một nhà tư bản Pháp có thế lực, có ảnh hưởng lớn trong chính giới tại Đông Dương
Vào lúc 20 giờ chiều ngày 9 tháng 2 năm 1929 tức vào chiều ngày 30 tháng 12 năm Mậu Thìn một vụ giết người mau lẹ và táo bạo xảy ra giữa thành phố Hà Nội. Người bị giết là Pháp kiều Bazin, giám đốc sở mộ phu có thế lực nhất ở Bắc kỳ có một vợ, ba con ngụ tại nhà số 35, phố Félix Faure.
Vào giờ, ngày nói trên Bazin vừa ở nhà nhân tình của ông là cô Germaine Carcelle, một đầm lai đứng bán hàng cho hãng buôn Gô đa có nhà ở số 110, phố Huế (còn gọi là phố Chợ Hôm) bước ra rồi băng qua đường để bước lên chiếc xe hơi của ông đậu ở bên kia. Trong tư thế vừa mở cửa xe, vừa ra dấu thân ái chào nhân tình và cũng lúc ấy người tài xế đang cho máy nổ để bắt đầu cho xe chạy thì bỗng có hai thanh niên Việt Nam mặc âu phục đầu để trần tiến đến gần Bazin. Một trong hai người đưa cho Bazin một bức thư (kỳ thực là bản cáo trạng). Trong khi ông này bận mở thư xem thì người kia rút súng bắn vào người Bazin ba phát. Bazin gục ngã.
Súng nổ, người tài xế – tên là Nguyễn Văn Tỵ – hoảng sợ nằm ép trong xe để lẩn trốn, đợi đến khi hai người đi khỏi anh ta mới dám ngồi dậy tri hô. Liền đó ông Weil, một Pháp kiều mộ phu khác có thế lực đứng vào hàng thứ hai sau Bazin, bạn của Bazin, chạy đến. Nạn nhân cấp thời được đưa vào bệnh viện Lanessan.<BR/. Theo điều tra của nhật báo La Volonté Indochinoise thì khi đến nhà thương nạn nhân tắt thở. Bazin bị ba phát đạn: một phát chạm tim, một phát bị bắn sau ót và phát kia thì đi qua mắt .
Khi nhà chức trách đến nơi thì người ta tìm thấy bên cạnh Bazin chết một bức thư. Đó là bản án ghép ông vào tội tử hình. Bản án ấy viết với một lối văn cứng cỏi, nét chữ rất khó nhận. Nhà chức trách không phân biệt được chữ viết ấy là thứ chữ của đàn ông, đàn bà hay trẻ con viết.
Nội vụ ám sát Bazin xảy ra mau chóng, không mấy người hay biết. Lý do giải thích như sau: vào chiều cuối năm Âm lịch theo tập tục dân chúng Việt Nam mọi người đều lo thu xếp, dọn dẹp nhà cửa, thanh toán công việc để chuẩn bị lễ cúng tất niên (cuối năm) nên phố xá người đi lại thưa thớt. Còn các nhân viên công lực, mật thám Pháp, các điềm chỉ viên người Việt cũng vì cho hôm ấy là ngày “năm hết tết đến” nên lơ là trong nhiệm vụ, hơn nữa tiếng pháo chiều ba mươi nổ vang khắp nơi khiến tiếng súng hòa lẫn tiếng pháo nên không ai ngờ có thể xảy ra vụ ám sát. Do đó hung thủ dễ dàng trốn thoát sau khi thi hành nhiệm vụ.
Ai là thủ phạm vụ án trên? Tổ chức nào thực hiện, đảng chính trị nào chủ trương? Và người ta giết Bazin với mục đích gì?… Chính quyền Đông Dương lúc ấy không tìm ra manh mối, không hoàn toàn giải thích rõ vấn đề.
Nhiều giả thuyết đưa ra: người ta nghi rằng đây là một vụ thanh toán đẫm máu vì cạnh tranh nghề nghiệp do các nhà tư bản có thế lực tổ chức, có kẻ cho đó là hoạt động của tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội hay tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng. Ý kiến này được ghi nhận bởi lẽ vào lúc này VNTNCMĐCH cũng có những hành động tích cực đáng kể như rải truyền đơn chống mộ phu, kêu gọi công nhân nổi dậy chống Pháp… song song với những phát triển mạnh mẽ với Việt Nam Quốc dân đảng.
Sau nhiều cuộc bắt bớ, điều tra, Pháp không tìm ra thủ phạm vụ án. Một thanh niên Việt Nam mang tên Pháp là Léon Sanh bị tình nghi là kẻ đã giết chết Bazin. Nhưng sau nhiều lần thẩm vấn, mật thám Pháp cũng không tìm thấy chứng cớ để buộc tội.
Cuối cùng Sở mật thám đi đến kết luận là họ quả quyết vụ ám sát Bazin là một vụ giết người có tính cách chính trị do một “hội kín” chủ trương .
Hội kín ấy là hội kín nào?
Theo những điều ghi nhận và nghiên cứu của Nhượng Tống và Hoàng Văn Đào thì vụ ám sát Bazin là vụ án chính trị rất liên quan đến VNQDĐ8. Án mạng xảy ra tuy không do Tổng bộ VNQDĐ và đảng trưởng Nguyễn Thái Học chủ trương nhưng hành động ám sát ấy lại do Nguyễn Văn Viên, đảng viên VNQDĐ tự mình đứng ra tổ chức và thực hiện .
Nguyễn Văn Viên, ủy viên thành bộ, điều khiển chi đoàn công nhân ở Hà Nội sau khi không được Nguyễn Thái Học chấp thuận đề nghị giết Bazin của mình, chàng thanh niên trẻ tuổi hăng say cách mạng đó bí mật theo dõi mọi sự đi lại của Bazin và âm thầm tổ chức vụ ám sát. Cộng tác với Nguyễn Văn Viên có Nguyễn Văn Lân, người bắn gục Bazin, Nguyễn Đức Lung, thanh niên đưa thư .
Quyết định giết cho được Bazin của Nguyễn Văn Viên và các đồng chí ông không ngoài ý nghĩa biểu lộ nỗi lòng phẫn uất, căm hờn của đa số dân chúng Việt Nam trước những thủ đoạn mộ phu tàn nhẫn, quỷ quyệt, dã man của bọn chủ mộ, những hành động coi thường luật pháp của bọn tư bản cấu kết với chính quyền.
Để hiểu rõ dân tình Việt Nam ở Bắc kỳ đối với việc mộ phu như thế nào chúng ta hãy thử tìm hiểu thực trạng cuộc sống của họ lúc ấy.
Châu thổ sông Hồng một vùng đất hẹp, dân đông, đất đai khai thác từ lâu nên đời sống nông dân miền Bắc vô cùng chật vật. Tình trạng đói khổ, tối tăm ấy lại gia tăng với nạn cường hào, ác bá ở nông thôn, thuế má đè nặng lên lưng hạng dân quê nghèo. Nợ nần chồng chất lớp này lên lớp khác do sự khai thác của hạng người cho vay lãi nặng, nhất là những năm ở thôn quê gặp nạn mất mùa, lụt lội, hạn hán .
Ngoài thảm cảnh kinh tế, tài chính, thuế má… người dân quê còn bị nạn nhũng nhiễu của bọn tham quan, ô lại, một hạng người được chính quyền thực dân dung dưỡng. Thêm vào đó nhà nước còn cấu kết, ám trợ bọn tư bản, che chở các hành động, bóc lột, đàn áp dân chúng mà bọn ấy là Bazin, là Weil hay bất cứ một tên thực dân nào khác.
Cuối cùng trước những thúc bách của cuộc sống thường nhật, đa số dân làng ở các vùng quê Bắc kỳ lần lượt bỏ quê hương tha phương cầu thực, lẩn trốn vào Nam, vào những vùng đất mới được khai thác ở miền Tây Nam kỳ.
Trong hoàn cảnh ấy sinh hoạt kinh tế Việt Nam có nhiều thay đổi sau trận đại chiến thứ nhất. Việc trồng các loại cây kỹ nghệ được chú trọng. Nhiều đồn điền cao su thiết lập ở Nam kỳ, cao nguyên nam Trung kỳ… Vấn đề thiết yếu cho công cuộc khai thác đồn điền là vấn đề nhân công. Tại Nam kỳ, Ai Lao việc mộ phu tương đối khó khăn vì cuộc sống hàng ngày của dân chúng ở các nơi này tương đối dễ dàng. Trái lại ở Bắc kỳ tình cảnh đói kém, cuộc sống cực khổ khó khăn của lớp nông dân nghèo đã là môi trường thuận lợi cho việc tuyển mộ phu. Để giải quyết cấp thời những khó khăn do nạn đói gây ra, dân quê Bắc kỳ nhắm mắt, đăng tên vào các đoàn phu đồn điền mong nhận chút ít tiền của bọn chủ mộ ứng trước để trang trải nợ nần hay giúp đỡ những người thân yêu hiện còn sống tại quê nhà.
Lợi dụng yếu điểm này, bọn chủ mộ và tay chân của họ tìm mọi cách để trục lợi. Các sở mộ nhân công thiết lập khắp nơi ở Bắc kỳ với những lời hứa hẹn đầy quyến rũ, hấp dẫn như lương bổng trả cao, thời gian làm việc ít, có chỗ ăn ở đàng hoàng, đau ốm có đầy đủ thuốc men… Và như thế việc mộ phu trở thành một “áp phe” thương mãi.
Trung bình cứ một “cu ly” ký giao kèo, đăng tên, tên chủ mộ Bazin hưởng 15#, trong khi lương của một cu ly thời ấy như sau: vào năm 1929-1930 tại Sài Gòn, lương công nhật của đàn ông là 0#78, đàn bà 0#46, lương bọn cai 1#20, lương tháng của bọn người giúp việc cho Pháp như bếp là 35#, bồi 28#, bé con 25#. Còn tại Hà Nội thì hạ hơn, lương công nhật của đàn ông là 0#41, đàn bà 0#23, lương hàng tháng của bọn bếp 17#, bồi 13#, bé con 11#…
Như thế với số tiền hưởng 15#00 một đầu người đem nhân với số lượng phu tuyển mộ hàng năm của Bazin khoảng 8.000 phu cung cấp cho các đồn điền ở Tân Guinée, Tân Hébrides. 40.000 phu cho các đồn điền cao su ở miền Nam Việt Nam như Công ty Cao su Đất Đỏ (Société Indochinoise des plantations d’hévéas) Công ty Michelin, Công ty Cao su Lộc Ninh… thì số lợi thu được của Bazin không phải nhỏ. Người ta phỏng định số tiền ấy vào khoảng 600.000# (chừng 8 triệu phật lăng) mỗi năm cho “áp phe” mộ phu .
Vì thế bọn chủ mộ không ngần ngại dùng mọi thủ đoạn, mánh khóe để mộ được nhiều phu15 như cho bắt cóc, dụ dỗ, vu oan giá họa các dân quê khờ khạo bắt cách bỏ bã rượu trong vườn, trong ruộng đưa nông dân nghèo vào con đường tù tội. Bí thế họ phải đăng tên đi phu để tạm thời có tiền hối lộ bọn quan lại tham nhũng mong tránh cảnh tra tấn, giam cầm, liên lụy đến gia đình.
Tình trạng trên đưa đến biết bao thảm cảnh, làm ly tán biết bao gia đình nông dân vô tội ở Bắc kỳ. Dân chúng vô cùng thống khổ, song biết kêu cứu vào đâu vì Bazin và bọn chủ mộ cấu kết với nhà nước và dĩ nhiên thực dân làm ngơ trước những cảnh đánh đập, đàn áp.
Trên những chuyến xe lửa chở phu mộ vào Nam người ta có cảm tưởng là những chuyến xe đặc biệt đưa tù nhân đi an trí vì binh lính sẵn sàng súng ống đi hộ tống, canh gác gắt gao sợ giữa đường các phu mộ tìm cách trốn thoát, không kể nguy hiểm nhảy từ xe hơi, hay xe lửa đang chạy xuống đường cái hay đường rầy.
Khổ cực, uất ức vừa kể chỉ là giai đoạn mở đầu. Người phu đồn điền còn phải tiếp tục cuộc sống đọa đày ở các đồn điền hẻo lánh, xa xôi đầy sơn lam chướng khí dưới sự hành hạ đánh đập, bóc lột tàn nhẫn của bọn cai phu, giám thị. Trong khi ấy thực dân, chủ mộ, chủ đồn điền cấu kết với nhau tiếp tục làm giàu do nguồn lợi cao su mang lại.
Đối với tư bản Pháp “vàng trắng” để chỉ cao su cũng đồng nghĩa với “vàng đen” để chỉ dầu hôi hay thuốc phiện. Riêng đối với phu mộ thì những giòng cao su màu trắng sữa đó là những giòng “máu trắng” vì:
“… Kiếp phu đổ lắm máu đào
Máu loang mặt đất, máu trào mủ cây
Cao su xanh tốt chốn này
Mỗi cây bón một xác người công nhân…”
Thực ra không phải “mỗi cây bón một xác người công nhân” nhưng số phu chết vùi thây ở các đồn điền cao su không phải là ít.
Đó là thân phận của những phu Việt Nam làm việc ở các đồn điền đất đỏ, là thảm kịch của người dân quê xứ Bắc kỳ trong công việc mộ phu của Bazin. Oán hờn chồng chất và hậu quả của vụ “buôn người” dã man, vô nhân đạo là cái chết của Bazin và việc trừng trị ấy chẳng qua là để báo thù, cảnh cáo cái chính sách bất công, đàn áp của thực dân Pháp đã làm lòng người dân Việt căm phẫn.
Bazin chết đi, việc mộ phu đi vào con đường bế tắc. Sở mật thám được lệnh hoạt động gắt gao, chính quyền Đông Dương phản ứng rất mau lẹ. Một mặt tang lễ của Bazin tổ chức long trọng với sự tham dự của Pasquier, Toàn quyền Đông Dương, Graffeuil, Tổng thư ký phủ Toàn quyền, Robin, Thống sứ Bắc kỳ và nhiều công chức cao cấp ở phủ Toàn quyền và phủ Thống sứ, mặt khác Pháp tung thám tử, điềm chỉ viên đi khắp các tỉnh ở Bắc kỳ, cho khám xét những nhà bị tình nghi. Quan tòa cho trát đi bắt nhiều người nhất là vùng Hải Phòng, Kiến An.
Tình trạng bố ráp này không những chỉ có ở Bắc mà còn có ở Nam kỳ . Dịp này nhiều cơ sở bí mật của VNQDĐ bị khám phá, nhiều tài liệu quan trọng bị Sở mật thám tịch thu. Hàng ngàn đảng viên bị giam cầm, tra tấn kể cả việc bắt giữ một số đảng viên của tổ chức VNTNCMĐCH.
Những đảng viên quan trọng của VNQDĐ tức tốc bị bắt giữ hoặc truy nã trừ Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu và một số yếu nhân khác thoát khỏi.
Thực ra trước đó không phải chính quyền Pháp không biết đến các hoạt động của đảng, nhưng Pháp chưa vội ra tay đàn áp vì muốn tổ chức này lan rộng rồi sau đó tận diệt một lần và nay vụ ám sát Bazin là cơ hội để chính quyền Đông Dương thực hiện công cuộc đàn áp . Tổ chức chính trị VNQDĐ bị thực dân Pháp tấn công truy nã .
Mười lăm ngày sau vụ giết Bazin, Toàn quyền Đông Dương ký nghị định thiết lập Hội đồng Đề hình (commission criminelle) tại Hà Nội để xử những người “âm mưu làm phản” theo sắc lệnh ký ngày 26-11-1896 của Tổng thống Pháp.
Hội đồng Đề hình là một Tòa án đặc biệt thay thế các tòa án thường để xử dân bản xứ, những đồng hóa phạm, những khinh trọng tội liên quan đến nền an ninh của nền bảo hộ hoặc tới sự mở mang của chính sách thuộc địa Pháp.
Cho thiết lập Hội đồng Đề hình là Pháp muốn đàn áp, dập tắt ngay các phong trào chính trị đang lên trong hiện tình đất nước Việt Nam lúc ấy.
Ngày 3-7-1929 phiên tòa đầu tiên nhóm họp kéo dài đến nửa đêm ngày hôm ấy để xét xử các đảng viên VNQDĐ. Ngày 16-8-1929 toàn quyền Đông Dương ký thêm một nghị định khác an trí hơn 20 đảng viên VNQDĐ. Sau phiên tòa này chính quyền thuộc địa còn tiếp tục tổ chức nhiều phiên tòa khác do Hội đồng Đề hình xét xử những đảng viên VNQDĐ.
Vụ ám sát Bazin năm 1929 như đã trình bày là cớ để Pháp đàn áp VNQDĐ. Số đảng viên bị bắt lên đến hàng ngàn nhưng các yếu nhân của đảng vẫn còn tại đào21. Sau thời gian giam cầm, tra khảo một số đảng viên được trả tự do. Hoạt động của đảng gặp nhiều trở ngại, thế lực đảng suy sút, phạm vi hoạt động bị thu hẹp vì:
– Một số đảng viên không còn dám hoạt động cho đảng nữa vì họ đã nếm mùi tra tấn trong thời gian bị giam cầm.
– Một số khác bị Pháp mua chuộc nên sau khi tự do tuy vẫn còn hoạt động cho đảng nhưng thực sự làm tay sai điềm chỉ, nội tuyến cho địch.
– Số khác tinh thần có, vẫn tích cực hoạt động nhưng bị mật thám theo dõi, canh chừng nên dễ bị chúng bắt giữ. Phạm vi hoạt động do đó bị hạn chế và dè dặt.
– Các cơ sở bí mật tổ chức trước kia nay bị phá vỡ, việc liên lạc giữa các chi bộ, đảng viên bị cắt đứt, gián đoạn.
Dù khó khăn như vậy, VNQDĐ không hoàn toàn bị tiêu diệt như mật thám Pháp mong muốn, trái lại không bao lâu đảng phục hồi được sinh lực. Lý do giải thích:
– Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu… thành phần lãnh đạo nòng cốt thoát khỏi màn lưới bao vây của Pháp.
– Nhân lực đảng được bổ sung nhanh nhờ sự hăng say hoạt động của lớp học sinh trẻ tuổi thuộc các trường ở Hà Nội và số đảng viên trả tự do sau vụ “bố ráp” năm 1929.
– Hành động của Nguyễn Thái Học tỏ ra tích cực hơn. Chính ông thảo ra bản “tu chính” điều lệ đảng năm 1929, bắt chước một số nguyên tắc tổ chức của cộng sản như tuyệt đối giữ gìn bí mật đảng, tổ chức nhóm chiến đấu, phụ nữ đoàn… sinh hoạt bên cạnh đảng .
Song song với việc thực hiện chương trình phục hồi lực lượng đảng, Nguyễn Thái Học còn thi hành nhiều hoạt động quan trọng khác: trừng trị các đảng viên phản bội (ám sát Bùi Tiến Mai, Nguyễn Văn Kính, Đội Dương…) xúc tiến việc chế tạo vũ khí, tổ chức các vụ tống tiền để bổ sung quỹ đảng…
Ngày 17-9-1929, hội nghị toàn quốc bí mật tổ chức ở Lạc Đạo (nơi giáp ranh hai tỉnh Bắc Ninh và Hưng Yên). Đây là cuộc họp toàn quốc đầu tiên kể từ sau ngày vụ ám sát Bazil xảy ra.
Cuộc họp quyết định nhiều vấn đề quan trọng: báo cáo tình hình chung của đảng sau ngày bị Pháp đàn áp, chuẩn bị vũ khí gia tăng mức chế tạo bom đạn để bắt đầu bước vào giai đoạn phá hoại.
Quyết định trên làm nội bộ VNQDĐ chia rẽ: đa số đảng viên tán đồng ý kiến dồn mọi hoạt động bước sang giai đoạn chuẩn bị khởi nghĩa của Nguyễn Thái Học (phe đa số) ngược lại một số đảng viên khác tán đồng ý kiến của Lê Hữu Cảnh, chủ trương nên kéo dài thời gian hoạt động bí mật, gây cơ sở (phe thiểu số). Với nhóm này, họ lý luận: lực lượng đảng còn kém nếu hành động mạnh dễ mang thất bại, dễ bị Pháp khủng bố, đàn áp và đảng có thể đi vào con đường tiêu diệt.
Tranh chấp dữ dội, cuối cùng ý kiến của Nguyễn Thái Học thắng.
Bối cảnh​ chính trị và xã hội Việt Nam dưới ách đô hộ của thực dân Pháp .
Sau những tổn thất nặng nề do chính quyền thực dân gây ra, một số lãnh tụ của Việt Nam Quốc dân Đảng chủ trương phản công bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang, chứ không thể ngồi khoanh tay chờ bị tiêu diệt.
Từ cách nhìn nhận đó, ngày 17 tháng 9 năm 1929, Chủ tịch Đảng Nguyễn Thái Học đã triệu tập Hội nghị Đại biểu toàn quốc Việt Nam Quốc dân Đảng tại Lạc Đạo, Hải Dương, để bàn bạc và thống nhất kế hoạch khởi nghĩa. Tại hội nghị, Việt Nam Quốc dân Đảng bị chia thành 2 phái: chủ hòa (Lê Hữu Cảnh) và chủ chiến (Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu). Phái chủ chiến chiếm ưu thế trong hội nghị.
Sau đó, Việt Nam Quốc dân Đảng triệu tập Hội nghị Bắc Ninh, thống nhất kế hoạch và phương thức tiến hành khởi nghĩa. Tăng cường vận động binh lính. Các cơ sở chế tạo vũ khí được triển khai và đẩy mạnh. Công tác chuẩn bị sau đó gặp một số sự cố như vụ sơ suất khi chế tạo bom, làm chết 3 đảng viên tại Bắc Ninh.
Trong Hội nghị tiếp theo nhóm họp ở làng Võng La, xã Hạ Bì, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ ngày 25 tháng 12 năm 1929, Quốc dân Đảng khẳng định rằng cần phải tiến hành một cuộc khởi nghĩa để phản công lại sự đàn áp của Pháp. Phạm Thành Dương phản bội tổ chức tại Hội nghị.
Ngày 26 tháng 1 năm 1930, hội nghị tiếp theo được tổ chức tại làng Mỹ Xá, phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Trong phiên họp ấy, đa số các đại biểu đều tán thành kế hoạch "Tổng khởi nghĩa". Cũng trong cuộc họp này, Việt Nam Quốc dân Đảng đã vạch ra kế hoạch tấn công một số đô thị và những yếu điểm quân sự của Pháp, bao gồm: Sơn Tây, Hải Dương, Hải Phòng, Kiến An, Bắc Ninh, Đáp Cầu, Phả Lại, Yên Bái, Hưng Hóa, Lâm Thao và Hà Nội. Chỉ huy các mặt trận cũng được chỉ định trong phiên họp lịch sử đó.
Trong một cuộc họp bí mật khác, trên núi Yên Tử thuộc tỉnh Quảng Ninh, giữa các lãnh tụ Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính và Nguyễn Khắc Nhu, ngày giờ phát động cuộc Tổng Khởi nghĩa được ấn định là ngày 10 tháng 2 năm 1930.
Chuẩn bị​ Khởi nghĩa
Việt Nam Quốc dân Đảng quyết định tiến hành cuộc Tổng Khởi nghĩa đồng loạt ở một số tỉnh Bắc Kỳ vào đêm 10 tháng 2 năm 1930, bao gồm các tỉnh: Yên Bái do Thanh Giang, Nguyễn Văn Khôi; Sơn Tây do Phó Đức Chính; Hưng Hóa, Lâm Thao do Nguyễn Khắc Nhu; Phả Lại, Hải Dương do Nguyễn Thái Học; Hải Phòng, Kiến An do Vũ Văn Giản (tức Vũ Hồng Khanh) và Hà Nội do Đoàn Trần Nghiệp.
Địa danh Yên Bái được lựa chọn là một địa điểm của cuộc Tổng Khởi nghĩa vì vị trí quan trọng của đô thị này trên tuyến đường nối Hà Nội với Lào Cai và Vân Nam.
Để chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa ở Yên Bái, các cán bộ của Quốc dân Đảng là Nguyễn Thị Giang và Nguyễn Thị Bắc được phái tới thành lập và tổ chức binh đoàn Yên Bái, đồng thời gây dựng cơ sở trong lực lượng lính khố đỏ tại đây. Sau đó, một chi bộ Việt Nam Quốc dân Đảng gồm binh lính người Việt trong quân đội Pháp được thành lập, kể cả các quân nhân Quản Cầm, Cai Thịnh, Cai Nguyên, Cai Thuyết và Cai Hoàng (tức Ngô Hải Hoàng). Lực lượng khởi nghĩa nhận được lời hứa ủng hộ của lính khố xanh và chi bộ tại Xuân Lũng, Phú Thọ. Tuy nhiên, sắp tới ngày khởi nghĩa thì người chỉ huy là Quản Cầm bị bệnh, đang chữa trị tại bệnh viện Lanessan. Quốc dân Đảng liền cử Trần Văn Liêm và Nguyễn Văn Khôi là những người không am hiểu về quân sự đến lãnh đạo và cử Ngô Hải Hoàng thay Quản Cầm.
Ngày 9 tháng 2 năm 1930, nhân cơ hội lễ hội đền Tuần Quán có nhiều người từ khắp nơi kéo về, đảng viên Quốc dân Đảng đã chuyển dấu vũ khí đến Yên Bái. Cuộc khởi nghĩa của binh đoàn Yên Bái tấn công quân đội Pháp khởi sự vào ngày 10 tháng 2 năm 1930 (theo mật báo của Công sứ Yên Bái là De Bottini gửi Toàn quyền Đông Dương Pasquier) .
Hành động​ vì Đại Nghĩa Dân Tộc .
Chiến sự tại Yên Bái​ :
Tối ngày 9 tháng 2 năm 1930, ngay khi có kèn hiệu tắt đèn ở trại lính, lực lượng nổi dậy đã đột nhập và hội với lực lượng binh lính nổi dậy bên trong. Quân khởi nghĩa chia làm nhiều mũi đánh vào khu nhà ở của sĩ quan, đồn Cao và đồn Dưới với mục tiêu là giết chỉ huy người Pháp và chiếm trại. Đúng 1 giờ sáng ngày 10 tháng 2 thì lực lượng khởi nghĩa đồng loạt hành động. Các viên chỉ huy Pháp là quan ba Jourdan, quan một Robert, quản Cunéo, đội Chevalier, sĩ quan Damour, Bouhier bị giết. Một số chỉ huy người Pháp khác bị thương nặng.
Sau khi tiêu diệt các sĩ quan Pháp, lực lượng nổi dậy chiếm kho vũ khí, chiếm nhà ga và cơ quan trong tỉnh.
Viên chỉ huy cao nhất của quân Pháp là Trung tá Aimé Le Tacon đã chốt chặt ở đồn Cao và đánh trả lực lượng tấn công. Quân nổi dậy dần rơi vào bất lợi do chỉ có ít lính khố đỏ theo còn lính khố xanh không những không theo như đã hứa mà còn chống lại.
Đến 7 giờ sáng ngày 10 tháng 2, Tacon chỉ huy 3 đạo quân Pháp do quan ba Roccas, quan một Varen và đội trưởng Ollivier cầm đầu phản công. Trước sức tấn công mạnh của quân địch, nghĩa quân thất bại và dần tan rã. Quân Pháp tái chiếm được lại toàn bộ trại lính, bắt giữ 4 cai và 22 lính khố đỏ cùng 25 nghĩa quân. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái đã thất bại vào sáng 10 tháng 2 năm 1930.
Các tỉnh trung du​
Chiến sự tại Phú Thọ diễn ra không đạt kết quả, Nguyễn Khắc Nhu chỉ huy quân đánh vào thị xã Hưng Hóa không đạt kết quả. Sáng ngày 10 tháng 2, quân Pháp từ Phú Thọ kéo lên phản công, quân khởi nghĩa bị đánh tan, Nguyễn Khắc Nhu bị bắt, sau đó ông tự sát. Tại phủ Lâm Thao, cánh quân của Lý Mai (tức Bùi Xuân Mai) đã nhanh chóng làm chủ, đuổi Tri phủ Đỗ Kim Ngọc, treo cờ, đốt lửa báo tin thắng lợi. Sáng hôm sau, quân Pháp do Phó công sứ Phú Thọ là Chauvet tấn công quyết liệt, tái chiếm lại phủ, nghĩa quân phải rút vào các làng lân cận, một số bị bắt, trong đó có Bùi Xuân Mai. Ông bị Pháp xử chém cùng Nguyễn Thái Học và 11 lãnh tụ khác của Quốc dân Đảng.
Do kế hoạch bị lộ từ trước nên cuộc tấn công vào thị xã Sơn Tây tại đồn Chùa Thông cũng không giành được thắng lợi. Sáng ngày 10 tháng 2 thì chỉ huy là Phó Đức Chính bị bắt.
Các tỉnh miền xuôi​
Sau khi chiến sự tại trung du đã thất bại thì kế hoạch hành động ở các tỉnh miền xuôi mới được triển khai. Đêm ngày 14 rạng sáng ngày 15 tháng 2 năm 1930, Việt Nam Quốc dân Đảng khởi nghĩa tại Phả Lại, Vĩnh Bảo, Kiến An, Phụ Dực.
Tại Vĩnh Bảo (Hải Dương), do Trần Quang Diệu chỉ huy, quân khởi nghĩa từ làng Cổ Am tiến lên tấn công huyện lỵ, giết Tri huyện Hoàng Gia Mô rồi tự giải tán. Tại Phụ Dực (Thái Bình), nghĩa quân đánh chiếm được phủ huyện, đốt giấy tờ sổ sách, rồi tự giải tán do không đủ sức chiếm giữ.
Kế hoạch khởi sự tại Kiến An bị lộ, Công sứ tỉnh Kiến An là Saillenfest de Soudeval cùng Phó sứ là L. Gorrec đã ra lệnh bắt giam toàn bộ lính khố đỏ, tổ chức canh phòng cẩn mật nên quân khởi nghĩa tự giải tán. Quân khởi nghĩa cũng gặp thất bại ở Đạo quan binh Phả Lại.
Ném bom​ tại Hà Nội
Đoàn Trần Nghiệp tổ chức đội cảm tử gồm có Nguyễn Văn Liên, Mai Duy Xứng, Nguyễn Minh Luân, Nguyễn Quang Triệu và Nguyễn Bá Tâm, tiến hành ném bom ở năm địa điểm ở Hà Nội trong đó có nhà Chánh mật thám Arnoux, 2 trái; Hỏa Lò 8 trái; Sở Sen đầm 2 trái; cảnh sát Quận 1, 2 trái; cảnh sát Quận 2, 2 trái. Bom nổ nhưng không có ai thiệt mạng. Đoàn Trần Nghiệp bị truy nã khắp nơi. Sau đó Đoàn Trần Nghiệp bị bắt tại Nam Định và bị hành quyết tại Hà Nội.
Lực lượng khởi nghĩa bị đánh bại, đảng viên của VNQDĐ bị truy nã, giam cầm và hành hình. Các lãnh tụ Nguyễn Thái Học và Phó Đức Chính bị Pháp áp giải từ Hà Nội lên Yên Bái xử trảm cùng với 11 người khác sáng sớm ngày 17 tháng 6 năm 1930.
Quân khởi nghĩa đã tiêu diệt 2 sĩ quan, 3 hạ sĩ quan, 6 cai và lính khố đỏ, làm bị thương 2 sĩ quan, 4 hạ sĩ quan và 4 cai và lính khố đỏ, thu được 2 khẩu súng liên thanh, 12 súng trường.
Ngày 27 tháng 2 năm 1930, 15 người của quân khởi nghĩa đã bị đem ra tòa xử và 4 trong số đó bị tử hình.
Sau khi một loạt lãnh đạo của Quốc dân Đảng bị bắt, thực dân Pháp đưa 87 người tới Yên Bái xử vào ngày 23 tháng 3 năm 1930, và 13 trong số đó bị tử hình. Nguyễn Thái Học và một số đồng chí bị quân Pháp do Công sứ Hải Dương Massimi chỉ huy bắt ở Hải Dương cũng bị đem tới Yên Bái tử hình trong đợt này. Các lãnh tụ Quốc dân Đảng khác bị xử tử hình cùng đợt ở Yên Bái ngày 23 tháng 3 gồm Phó Đức Chính, Bùi Tử Toàn (nông dân), Bùi Văn Chuẩn, Nguyễn An, Đào Văn Nhít, Ngô Văn Du, Nguyễn Văn Tiềm, Nguyễn Như Liên (20 tuổi, sinh viên, bí danh Ngọc Tỉnh), Nguyễn Văn Cửu, Lê Văn Tụ, Nguyễn Văn Tính và Hà Văn Lạo (25 tuổi, thợ hồ).
Thống sứ Bắc Kỳ là Robin ra lệnh cho công sứ ở tỉnh lỵ (và các tỉnh khác) ném bom triệt hạ làng Cổ Am, huyện Vĩnh Lại, Hải Dương vì có tin là nghĩa quân về ẩn náu ở đó...
ANH HÙNG TỬ . KHÍ HÙNG BẤT TỬ .
"Việt Nam muôn năm!" Một đầu rơi rụng
"Việt Nam muôn năm!" Người kế tiến lên
Và tử thần kính cẩn đứng ghi tên
Những liệt sĩ vào bia người tuẫn quốc.
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn