THÀNH VĨNH LONG THẤT THỦ LẦN THỨ 1
Trước đó, khi nghe tin quân Pháp sắp đánh Biên Hòa và Vĩnh Long, triều đình Huế sai tướng Nguyễn Tri Phương đem hai vệ quân phối hợp với hai ngàn đã phái đi trước, đang đóng ở Khánh Hòa, vào cấp cứu. Nhưng quân chưa đến nơi, thì tướng Nguyễn Bá Nghi đã chạy về Bình Thuận, sau khi để thành Biên Hòa thất thủ (18 tháng 12 năm 1861).
Thừa thắng, vào nửa tháng 3 năm 1862, 11 chiến thuyền của Pháp từ Định Tường kéo sang tấn công hai đồn lũy ở Vĩnh Long là Vĩnh Tùng (do Lãnh binh Tôn Thất Tuấn, Nguyễn Thái, Lê Đình Cửu trấn giữ), Thanh Mỹ (do Lãnh binh Hồ Lực, Ngô Thành, Trương Văn Thành trấn giữ). Bắn phá luôn hai ngày đêm, thì hai đồn trên đều vỡ.
Ngày 20 tháng 3 năm 1862, đoàn chiến thuyền của Pháp đã áp sát thành Vĩnh Long, rồi bắt đầu nổ súng. Quân triều đình chống cự kịch liệt trên các ngọn rạch và chung quanh thành. Trận đánh kéo dài đến tối ngày 22 tháng 3, thì các ổ đại bác của quân Việt đều bị phá. Đêm đó, Tổng đốc Trương Văn Uyển cho lệnh đốt hết kho tàng, dinh thự rồi rút chạy về đồn Thị Bảo, rồi chạy thẳng lên huyện Duy Minh. Cho nên, sáng hôm sau (23 tháng 2), quân Pháp tiến vào chiếm đoạt thành, mà không gặp sự kháng cự nào nữa. Vào thành, quân Pháp thu được 68 cổ đại bác.
Nghe tin thành Vĩnh Long đã mất, vua Tự Đức trách Trương Văn Uyển là không biết chọn chỗ hiểm yếu mà đặt đồn, làm thành cái thế không thể bị đánh bật, mà chỉ chuyên dựa vào hai nơi là Thanh Mỹ và Vĩnh Tùng. Xét tội, các quan tỉnh thành có trách nhiệm đều bị cách lưu, nhưng vẫn phải lo việc thu tập binh dũng, khí giới, lương thực...để hỗ trợ cho các quan quân và nghĩa dân còn đang hoạt động ở các nơi khác.
Đầu tháng 5 năm 1862, sau khi cùng các đình thần bàn bạc, vua Tự Đức sai quan thông báo cho phía Pháp đề nghị "giảng hòa". Lập tức, Đô đốc Bonard sai Simon đáp thuyền máy đến Huế đưa ra ba yêu sách...Cuối cùng, ngày 5 tháng 6 năm 1862, Hòa ước Nhâm Tuất (1862) được ký kết, mà phần thua thiệt thuộc về nhà Nguyễn.
TRIỀU ĐÌNH HUẾ VÀ HÒA ƯỚC NĂM NHÂM TUẤT (1862)
Theo hòa ước trên, thực dân Pháp phải sớm trao trả thành Vĩnh Long, nhưng lấy cớ chưa dẹp yên "giặc giã", nên mãi đến ngày 25 tháng 5 năm 1863, họ mới thực hiện.
Triều đình Huế không đủ quân số để tái chiếm các vùng bị mất, thế địch mạnh làm chủ tinh hình các vùng đất phì nhiêu, tịch thu lúa gạo, tài nguyên quốc gia. Triều đình Huế mất gần hết nguồn lương thực từ miền Nam. Quân Pháp chiếm nhiều điạ phận lớn quân số không đủ để kiểm soát, chưa được sự ủng hộ của người dân, nên họ muốn dừng chân để đặc nền thống trị. Phó đề đốc Luis Bonard cử Trung tá Hải quân Simon ra Thuận An bàn chuyện thương thuyết với triều đình Huế, hai bên đồng ý. Triều đình cử Phan Thanh Giản chánh sứ và Lâm Duy Hiệp làm phó sứ, toàn quyền đại thần vào Gia Định nghị hòa. Triều đình trao hai cái gông vào cổ hai vị quan đi lo việc nước! Cuộc thương thuyết kéo dài 20 ngày và ký kết hòa ước Nhâm Tuất (1862) phải nhượng cho Pháp ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ (Gia Định, Định Tường và Biên Hòa) Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp phải ký một hiệp ước bất đắc dĩ, không thể cưỡng lại được, để nhận trách nhiệm có tội với vua, với dân tộc để tiếng xấu với muôn đời. Thực dân Pháp ở thế chiến thắng, trong khi đại diện cho triều đình người đàm phán thuộc phái yếu không thể đòi hỏi nào hơn! Nguyễn Trường Tộ đã ví thực dân Pháp như „con khủng long thấy đầm nước không lùi bước“, như „con mèo thấy mỡ“ không bao giờ có ý định bỏ đi.
Hòa ước Nhâm Tuất gồm 12 khoản ký ngày 05-06-1862 tại Sài Gòn. Kèm theo điều kiện là triều đình Huế phải có biện pháp chấm dứt các cuộc khởi nghĩa chống lại người Pháp ở các tỉnh (Khoản 11 Hiệp ước)… Tất cả các điều khoản trên về phiá Việt Nam đều bị thiệt hại Nam Kỳ chỉ còn lại ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ, hòa ước không được triều đình hoan nghênh, vua Tự Đức phê chuẩn, quở trách Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp và cho rằng hai viên quan nầy "không những là người có tội với triều đình nhà Nguyễn, mà còn mắc tội đối với muôn đời vậy!“
Lâm Duy Hiệp bị cách chức làm tuần phủ Thuận Khánh, cuộc đời ông trôi qua cùng giòng lịch sử đau thương của đất nước và tạ thế năm 1963. Phan Thanh Giản bị đổi xuống làm Tổng đốc Vĩnh Long để có cơ hội thương thuyết với Pháp! Năm 1863 ông được cử làm Khâm Mạng Đại Thần chánh sứ, cùng phó sứ Phạm Phú Thứ, Ngụy Khắc Đản, sang Pháp nghị hòa xin chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam kỳ, nhưng không có kết quả. A. Schreiner đã đưa ra một sự phê phán rằng: "Những người An Nam đi thương thuyết họ đã quên một hệ quả cốt yếu của chiến tranh là kẻ chiến bại không được phép đòi hỏi lợi lộc." (Le négociateur annamite feignait ignorer une conséquence essentielle de la guerre, que le vaincu ne saurait reclaimer des avantages).
Pháp tiếp tục uy hiếp ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ cũng như Bắc Kỳ. Phan Thanh Giản tuổi già sức yếu nhiều lần xin về hưu đều bị vua Tự Đức từ chối, tiếp tục giao ông chức Kinh Lược Đại Thần, đóng ở Vĩnh Long để đối đầu với thực dân Pháp. Phan Thanh Giản đau lòng trước sự thất bại từ các cuộc nổi dậy của sĩ phu và quân dân Nam Kỳ chống Pháp như Trương Công Định, Nguyễn Hữu Huân năm 1864, đời sống người dân càng ngày thêm nghèo đói vì chiến tranh.
THÀNH VĨNH LONG THẤT THỦ LẦN THỨ 2
De la Grandière có kế hoạch chiếm ba tỉnh Nam Kỳ viện lý do chính quyền ba tỉnh nầy che chở cung cấp vũ khí cho quân nổi dậy chống Pháp. Quân Pháp rời Sài Gòn ngày 15.6.1867 với lực lượng gồm chín pháo hạm, tám vận tải hạm 1.200 quân và 400 lính tập đi đường biển đến Mỹ Tho rồi từ đó ngược sông Cửu Long đến Vĩnh Long xuôi nam mượn đường sông sang Campuchia rồi chiếm các thành: ngày 20.6.1867 đến Vĩnh Long, chúng đem chiến thuyền Ondine đến áp sát thành, lợi dụng thái độ ôn hòa của Phan Thanh Giản đưa thư buộc ông nhường ba tỉnh miền Tây, xuống tàu thương nghị Phan Thanh Giản trên đôi vai gầy, trong tay không vũ khí trả lời với De la Grandière „Ta chỉ có quyền giữ đất chứ không có quyền giao đất“. Ông rời tàu về thành không còn, quân Pháp đã chiếm thành Vĩnh Long. Sau đó buộc Phan Thanh Giản viết thư giao các thành còn lại, ông đành nhượng bộ để tránh đổ máu vô ích, không muốn lùa đàn dê vào miệng cọp. Ông chỉ yêu cầu Pháp đừng giết hại dân lành và để của trong kho lại cho triều đình Huế. Pháp chiếm An Giang 22.6.1867 và Hà Tiên 24.6.1867. Phan Thanh Giản thất bại bang giao trước vũ lực, bằng đại bác, pháo thuyền của bọn thực dân. Ông viết biểu trần tình dâng lên vua Tự Đức, tuyệt thực và uống thuốc độc qua đời ngày 05.7.1876.
Nam Kỳ đã mất về tay Pháp, các cuộc kháng Pháp vẫn tiếp diễn khắp nơi .
Bến Tre, Vĩnh Long...Phan Tôn cùng Phan Liêm (đều là con Phan Thanh Giản) vẫn cương quyết đứng lên khởi nghĩa (1867-1868).
Ở Rạch Giá (Kiên Giang), Nguyễn Trung Trực cũng đã tổ chức đánh chiếm tỉnh thành này và làm chủ được 5 ngày (16 tháng 6 năm 1868 -21 tháng 6 năm 1868). Thủ Khoa Huân, sau khi bị đày rồi được tha (tháng 2, năm 1869), lại tiếp tục kháng Pháp...
Cùng với các cuộc nổi dậy khác, tất cả đã làm cho thực dân Pháp phải lao đao. Sử Pháp thú nhận: Những cuộc thất bại của quân đội triều đình Đại Nam, không có ảnh hưởng chút nào đến tình hình ứng nghĩa của các vùng đã bị chiếm đóng.
Trước đó, khi nghe tin quân Pháp sắp đánh Biên Hòa và Vĩnh Long, triều đình Huế sai tướng Nguyễn Tri Phương đem hai vệ quân phối hợp với hai ngàn đã phái đi trước, đang đóng ở Khánh Hòa, vào cấp cứu. Nhưng quân chưa đến nơi, thì tướng Nguyễn Bá Nghi đã chạy về Bình Thuận, sau khi để thành Biên Hòa thất thủ (18 tháng 12 năm 1861).
Thừa thắng, vào nửa tháng 3 năm 1862, 11 chiến thuyền của Pháp từ Định Tường kéo sang tấn công hai đồn lũy ở Vĩnh Long là Vĩnh Tùng (do Lãnh binh Tôn Thất Tuấn, Nguyễn Thái, Lê Đình Cửu trấn giữ), Thanh Mỹ (do Lãnh binh Hồ Lực, Ngô Thành, Trương Văn Thành trấn giữ). Bắn phá luôn hai ngày đêm, thì hai đồn trên đều vỡ.
Ngày 20 tháng 3 năm 1862, đoàn chiến thuyền của Pháp đã áp sát thành Vĩnh Long, rồi bắt đầu nổ súng. Quân triều đình chống cự kịch liệt trên các ngọn rạch và chung quanh thành. Trận đánh kéo dài đến tối ngày 22 tháng 3, thì các ổ đại bác của quân Việt đều bị phá. Đêm đó, Tổng đốc Trương Văn Uyển cho lệnh đốt hết kho tàng, dinh thự rồi rút chạy về đồn Thị Bảo, rồi chạy thẳng lên huyện Duy Minh. Cho nên, sáng hôm sau (23 tháng 2), quân Pháp tiến vào chiếm đoạt thành, mà không gặp sự kháng cự nào nữa. Vào thành, quân Pháp thu được 68 cổ đại bác.
Nghe tin thành Vĩnh Long đã mất, vua Tự Đức trách Trương Văn Uyển là không biết chọn chỗ hiểm yếu mà đặt đồn, làm thành cái thế không thể bị đánh bật, mà chỉ chuyên dựa vào hai nơi là Thanh Mỹ và Vĩnh Tùng. Xét tội, các quan tỉnh thành có trách nhiệm đều bị cách lưu, nhưng vẫn phải lo việc thu tập binh dũng, khí giới, lương thực...để hỗ trợ cho các quan quân và nghĩa dân còn đang hoạt động ở các nơi khác.
Đầu tháng 5 năm 1862, sau khi cùng các đình thần bàn bạc, vua Tự Đức sai quan thông báo cho phía Pháp đề nghị "giảng hòa". Lập tức, Đô đốc Bonard sai Simon đáp thuyền máy đến Huế đưa ra ba yêu sách...Cuối cùng, ngày 5 tháng 6 năm 1862, Hòa ước Nhâm Tuất (1862) được ký kết, mà phần thua thiệt thuộc về nhà Nguyễn.
TRIỀU ĐÌNH HUẾ VÀ HÒA ƯỚC NĂM NHÂM TUẤT (1862)
Theo hòa ước trên, thực dân Pháp phải sớm trao trả thành Vĩnh Long, nhưng lấy cớ chưa dẹp yên "giặc giã", nên mãi đến ngày 25 tháng 5 năm 1863, họ mới thực hiện.
Triều đình Huế không đủ quân số để tái chiếm các vùng bị mất, thế địch mạnh làm chủ tinh hình các vùng đất phì nhiêu, tịch thu lúa gạo, tài nguyên quốc gia. Triều đình Huế mất gần hết nguồn lương thực từ miền Nam. Quân Pháp chiếm nhiều điạ phận lớn quân số không đủ để kiểm soát, chưa được sự ủng hộ của người dân, nên họ muốn dừng chân để đặc nền thống trị. Phó đề đốc Luis Bonard cử Trung tá Hải quân Simon ra Thuận An bàn chuyện thương thuyết với triều đình Huế, hai bên đồng ý. Triều đình cử Phan Thanh Giản chánh sứ và Lâm Duy Hiệp làm phó sứ, toàn quyền đại thần vào Gia Định nghị hòa. Triều đình trao hai cái gông vào cổ hai vị quan đi lo việc nước! Cuộc thương thuyết kéo dài 20 ngày và ký kết hòa ước Nhâm Tuất (1862) phải nhượng cho Pháp ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ (Gia Định, Định Tường và Biên Hòa) Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp phải ký một hiệp ước bất đắc dĩ, không thể cưỡng lại được, để nhận trách nhiệm có tội với vua, với dân tộc để tiếng xấu với muôn đời. Thực dân Pháp ở thế chiến thắng, trong khi đại diện cho triều đình người đàm phán thuộc phái yếu không thể đòi hỏi nào hơn! Nguyễn Trường Tộ đã ví thực dân Pháp như „con khủng long thấy đầm nước không lùi bước“, như „con mèo thấy mỡ“ không bao giờ có ý định bỏ đi.
Hòa ước Nhâm Tuất gồm 12 khoản ký ngày 05-06-1862 tại Sài Gòn. Kèm theo điều kiện là triều đình Huế phải có biện pháp chấm dứt các cuộc khởi nghĩa chống lại người Pháp ở các tỉnh (Khoản 11 Hiệp ước)… Tất cả các điều khoản trên về phiá Việt Nam đều bị thiệt hại Nam Kỳ chỉ còn lại ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ, hòa ước không được triều đình hoan nghênh, vua Tự Đức phê chuẩn, quở trách Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp và cho rằng hai viên quan nầy "không những là người có tội với triều đình nhà Nguyễn, mà còn mắc tội đối với muôn đời vậy!“
Lâm Duy Hiệp bị cách chức làm tuần phủ Thuận Khánh, cuộc đời ông trôi qua cùng giòng lịch sử đau thương của đất nước và tạ thế năm 1963. Phan Thanh Giản bị đổi xuống làm Tổng đốc Vĩnh Long để có cơ hội thương thuyết với Pháp! Năm 1863 ông được cử làm Khâm Mạng Đại Thần chánh sứ, cùng phó sứ Phạm Phú Thứ, Ngụy Khắc Đản, sang Pháp nghị hòa xin chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam kỳ, nhưng không có kết quả. A. Schreiner đã đưa ra một sự phê phán rằng: "Những người An Nam đi thương thuyết họ đã quên một hệ quả cốt yếu của chiến tranh là kẻ chiến bại không được phép đòi hỏi lợi lộc." (Le négociateur annamite feignait ignorer une conséquence essentielle de la guerre, que le vaincu ne saurait reclaimer des avantages).
Pháp tiếp tục uy hiếp ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ cũng như Bắc Kỳ. Phan Thanh Giản tuổi già sức yếu nhiều lần xin về hưu đều bị vua Tự Đức từ chối, tiếp tục giao ông chức Kinh Lược Đại Thần, đóng ở Vĩnh Long để đối đầu với thực dân Pháp. Phan Thanh Giản đau lòng trước sự thất bại từ các cuộc nổi dậy của sĩ phu và quân dân Nam Kỳ chống Pháp như Trương Công Định, Nguyễn Hữu Huân năm 1864, đời sống người dân càng ngày thêm nghèo đói vì chiến tranh.
THÀNH VĨNH LONG THẤT THỦ LẦN THỨ 2
De la Grandière có kế hoạch chiếm ba tỉnh Nam Kỳ viện lý do chính quyền ba tỉnh nầy che chở cung cấp vũ khí cho quân nổi dậy chống Pháp. Quân Pháp rời Sài Gòn ngày 15.6.1867 với lực lượng gồm chín pháo hạm, tám vận tải hạm 1.200 quân và 400 lính tập đi đường biển đến Mỹ Tho rồi từ đó ngược sông Cửu Long đến Vĩnh Long xuôi nam mượn đường sông sang Campuchia rồi chiếm các thành: ngày 20.6.1867 đến Vĩnh Long, chúng đem chiến thuyền Ondine đến áp sát thành, lợi dụng thái độ ôn hòa của Phan Thanh Giản đưa thư buộc ông nhường ba tỉnh miền Tây, xuống tàu thương nghị Phan Thanh Giản trên đôi vai gầy, trong tay không vũ khí trả lời với De la Grandière „Ta chỉ có quyền giữ đất chứ không có quyền giao đất“. Ông rời tàu về thành không còn, quân Pháp đã chiếm thành Vĩnh Long. Sau đó buộc Phan Thanh Giản viết thư giao các thành còn lại, ông đành nhượng bộ để tránh đổ máu vô ích, không muốn lùa đàn dê vào miệng cọp. Ông chỉ yêu cầu Pháp đừng giết hại dân lành và để của trong kho lại cho triều đình Huế. Pháp chiếm An Giang 22.6.1867 và Hà Tiên 24.6.1867. Phan Thanh Giản thất bại bang giao trước vũ lực, bằng đại bác, pháo thuyền của bọn thực dân. Ông viết biểu trần tình dâng lên vua Tự Đức, tuyệt thực và uống thuốc độc qua đời ngày 05.7.1876.
Nam Kỳ đã mất về tay Pháp, các cuộc kháng Pháp vẫn tiếp diễn khắp nơi .
Bến Tre, Vĩnh Long...Phan Tôn cùng Phan Liêm (đều là con Phan Thanh Giản) vẫn cương quyết đứng lên khởi nghĩa (1867-1868).
Ở Rạch Giá (Kiên Giang), Nguyễn Trung Trực cũng đã tổ chức đánh chiếm tỉnh thành này và làm chủ được 5 ngày (16 tháng 6 năm 1868 -21 tháng 6 năm 1868). Thủ Khoa Huân, sau khi bị đày rồi được tha (tháng 2, năm 1869), lại tiếp tục kháng Pháp...
Cùng với các cuộc nổi dậy khác, tất cả đã làm cho thực dân Pháp phải lao đao. Sử Pháp thú nhận: Những cuộc thất bại của quân đội triều đình Đại Nam, không có ảnh hưởng chút nào đến tình hình ứng nghĩa của các vùng đã bị chiếm đóng.
Gửi ý kiến của bạn