TIẾNG VIỆT À ƠI ! BÀI HỌC 34 : VIỆT NAM THỜI TỰ ĐỨC - QUÂN PHÁP TẤN CHIẾM GIA ĐỊNH VÀ ĐỊNH TƯỜNG - CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP CỦA BÌNH TÂY ĐẠI NGUYÊN SOÁI TRƯƠNG CÔNG ĐỊNH .

12 Tháng Giêng 20257:20 CH(Xem: 181)
Anh Hùng Dân Tộc Trương Công Định .

Trương Định (chữ Hán: 張定; 1820 – 1864) hay Trương Công Định sau này hoặc Trương Trường Định, là Võ quan triều Nguyễn, và là Thủ Lãnh chống Pháp giai đoạn 1859 – 1864, trong Lịch sử Việt Nam.
Tóm lược Tiểu sử .
Trương Định sinh tại làng Tư Cung, phủ Bình Sơn, Quảng Ngãi (xã Tịnh Khê - Quảng Ngãi). Cha ông là Lãnh Binh Trương Cầm, từng là Hữu thủy Vệ uý ở Gia Định dưới thời vua Thiệu Trị.
Năm 1844, Trương Định theo cha vào Nam. Sau khi cha mất, ông trú ngụ ngay nơi cha đóng quân. Sau đó, ông kết hôn với bà Lê Thị Thưởng, vốn là con gái của một hào phú ở huyện Tân Hòa, tỉnh Gia Định (Gò Công - Tiền Giang).
Năm 1850, hưởng ứng chính sách khẩn hoang của Tướng Nguyễn Tri Phương, Trương Định xuất tiền ra chiêu mộ dân nghèo lập đồn điền ở Gia Thuận (Gò Công), vì thế, ông được nhà Nguyễn bổ làm Quản Cơ, hàm chánh lục phẩm.
Trở thành thủ lĩnh chống Pháp .
Năm 1859, Pháp tấn công Gia Định lần thứ nhất, Trương Định đem quân phối hợp với binh của Tướng Nguyễn Tri Phương phòng giữ chiến tuyến Chí Hòa. Khi Đại đồn Chí Hòa thất thủ, ông lui về Gò Công, cùng Lê Quang Quyền và một số hào kiệt chiêu binh ứng nghĩa, trấn giữ vùng Gia Định-Định Tường.
Ở đây, Trương Định tổ chức lại lực lượng, mưu tính kháng chiến trong các vùng Gò Công, Tân An, Mỹ Tho, Chợ Lớn, Sài Gòn, Đồng Tháp Mười và kéo dài đến tận biên giới Campuchia.
Kể về ông ở giai đoạn này, sử nhà Nguyễn chép:
Trương Định am hiểu võ nghệ, dũng cảm, mưu lược. Tự Đức năm thứ 14 (1861), thành Gia Định hữu sự, Trương Định hưởng ứng việc nghĩa, chiêu mộ thú dõng được hơn 6.000 người, lại kiêm quản những đầu mục thân hào mộ việc nghĩa, dồn lập 18 cơ quân, luôn chống đánh người Pháp, thu được súng ống khí giới và đúc chế thêm để dùng, được bạt bổ làm Quản Cơ lĩnh Phó Lãnh Binh Gia Định.
Ngày 5 tháng 6 năm 1862, triều đình Tự Đức ký kết hòa ước với Pháp. Cũng theo sử nhà Nguyễn thì:
Tháng 7 năm 1862...từ khi đã định hòa ước rồi, vua Tự Đức truyền dụ Nam Kỳ bãi binh và điều Trương Định ra Phú Yên. Khi ấy trong các tỉnh Gia Định, Định Tường, Biên Hòa những người ứng nghĩa rủ nhau đoàn kết, ủng hộ Trương Định làm Thủ Lãnh nghĩa quân và tôn danh Trương Công Định , xin cho ra đánh, Đình thần nghị rằng: "bây giờ việc Bắc Kỳ đương khẩn, mà Nam Kỳ chưa có cơ hội gì, xin giao Phan Thanh Giản hiểu dụ". Nhưng Trương Định đã lâu mà không chịu về cung chức, bị cách chức hàm.
Thực sự , ông đã từ chối thư dụ hàng của tướng Pháp là Bonard, bất chấp chiếu vua ra lệnh bãi binh do Phan Thanh Giản truyền vào và rút quân về Gò Công, xưng là Trung thiên tướng quân và được người dân tôn là Bình Tây Đại Nguyên soái Trương Công Định, lấy nơi này làm bản doanh, xây dựng các căn cứ kháng chiến.
Ngày 16 tháng 12 năm 1862, Trương Công Định đã ra lệnh tấn công các vị trí của quân Pháp ở cả ba tỉnh miền Đông Nam Phần, đẩy quân Pháp vào tình thế phòng thủ, bị động. Tháng 2 năm 1863, nhờ có viện binh, quân Pháp phản công tại Biên Hòa, Chợ Lớn, bao vây Gò Công. Ngày 26 tháng 2 năm 1863, Pháp đánh chiếm thành trì, ông thoát khỏi vòng vây và kéo quân về Biên Hòa.
Tháng 9 năm 1863, tướng Lagrandière sang thay Bonard, mở cuộc càn quét thứ hai, bắt được vợ con và một số tùy tùng của Trương Định.
Ngày 19 tháng 8 năm 1864, Huỳnh Công Tấn phản bội dẫn đường cho quân Pháp bất ngờ bao vây đánh úp. Bản doanh "Đám lá tối trời" thất thủ, Trương Công Định bị trọng thương , gãy xương sống .
Sau đó ông đã tự sát ,để khỏi rơi vào tay giặc Pháp, khi ấy ông 44 tuổi.
Hay tin Trương Công Định tuẫn tiết , vua Tự Đức sai truy tặng ông phẩm hàm, và năm 1871 lại cho lập đền thờ ông tại Tư Cung (Quảng Nghĩa - Quảng Ngãi). Con ông là Trương Quyền đã rút lên vùng Châu Đốc tiếp tục chống Pháp thêm 6 năm nữa.
Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã làm 12 bài thơ và một bài văn tế điếu ông - Trích giới thiệu một bài:

Trong Nam, tên họ nổi như cồn
Mấy trận Gò Công nức tiếng đồn
Đấu đạn hỡi rêm tàu bạch quỷ
Hơi gươm thêm rạng vẻ Hoàng Môn
Ngọn cờ ứng nghĩa trời chưa bẻ
Quả ấn Bình Tây đất vội chôn
Nỡ khiến anh hùng rơi giọt luỵ
Lâm dâm ba chữ điếu linh hồn.

Những Tuyên Ngôn Bất Khuất của Anh Hùng Dân Tộc Trương Công Định .
Tuyên bố của Trương Công Định trong thư trả lời thư dụ hàng của tướng Pháp Bonard vào cuối năm 1862:
“ Triều đình Huế không nhìn nhận chúng tôi, nhưng chúng tôi cứ bảo vệ Đất Nước chúng tôi. ”
Ông trả lời Phan Thanh Giản về việc bãi binh chống Pháp: "Triều đình nghị hòa thì cứ nghị hòa còn việc của Định thì Định cứ làm. Định thà đắc tội với Triều đình chứ không nỡ ngồi nhìn giang san này chìm đắm..."
Tuyên bố của Trương Công Định gửi các quan ở Vĩnh Long, để tỏ ý ly khai với Nam triều (vì sau hòa ước Nhâm Tuất, vua Tự Đức ra lệnh ông phải bãi binh) vào tháng 2 năm 1863:
“ Muốn trở lại y như xưa, dân chúng ba tỉnh yêu cầu chúng tôi đứng đầu khởi nghĩa, chúng tôi không thể làm gì được khác. Chúng tôi chuẩn bị chiến đấu vào hướng Đông cũng như hướng Tây, chúng tôi chống đối và chiến đấu. Chúng tôi sẽ đánh ngã bọn giặc cướp... ”
“ Chúng ta thề sẽ đánh mãi và đánh không ngừng, khi ta thiếu tất cả sẽ bẻ nhánh cây làm cờ, lấy gậy gộc làm võ khí cho quân lính ta... ”
Hịch của Trương Công Định (tháng 8 năm 1864):
“ Lòng dân đã muốn ta lên làm nguyên nhung ba tỉnh, ta trông vào lòng dân yêu thương không phai lạt của mọi người đối với ta. Thế là xong bất dung tha giặc cướp. ”

Tất cả các đoạn trích được ghi khắc trang nghiêm trong đền thờ Anh Hùng Dân Tộc Trương Công Định, ở thị xã Gò Công.
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn