NHỮNG NGÀY XƯA GHI DẤU SỬ XANH : ĐẠI NAM MINH MẠNG NĂM 1836 TRẤN TÂY TƯỚNG QUÂN TRƯƠNG MINH GIẢNG - ANH HÙNG ĐẠI VIỆT TRỰC TRỊ CAO MIÊN - CAMBODIA .

30 Tháng Tư 20249:03 CH(Xem: 611)
VIỆT NAM VÀ CHIẾN CUỘC CAO MIÊN .

Năm 1807, sau khi vua Gia Long lên ngôi, vua Chân Lạp là Ang Chan II (Nak Ong Chan, Nặc Chăn) xin thần phục triều đình Huế thay vì triều đình Xiêm như trước kia.
Sang triều Minh Mạng năm 1833, sau khi triều đình bắt tội Tổng trấn Lê Văn Duyệt, Lê Văn Khôi con nuôi ông dấy binh nổi loạn, chiếm giữ Thành Bát Quái (thuộc Sài Gòn ngày nay). Vì yếu thế, vài tháng sau Lê Văn Khôi cầu viện nước Xiêm; vua Xiêm Rama III bèn sai tướng Chao Phraya Bodin và Phraklang đem hàng ngàn quân thủy bộ, chia ra làm 5 đạo tiến đánh Gia Định. Đường thủy thì qua ngả Vịnh Thái Lan, đường bộ thì qua đất Chân Lạp, đồng thời thừa thế khống chế luôn Chân Lạp.
Vua Minh Mạng sai Trương Minh Giảng, Phan Văn Thúy đem quân vào dẹp loạn Lê Văn Khôi. Dựa vào thành cao hào sâu, quân Lê Văn Khôi cố thủ hữu hiệu, quan quân triều đình vây hãm suốt hai năm mới phá được thành vào tháng 9 năm 1835. Lê Văn Khôi đã bệnh chết trước đó, con ông và dư đảng bị bắt giết.
Trong khi đó, quân Xiêm đánh vào tỉnh An Giang (tháng 12, 1833), rồi tiến lên giao chiến ở rạch Củ Hủ. Trận ấy quân triều đình nhà Nguyễn thắng và phản công chiếm lại đồn Châu Đốc, tỉnh An Giang, thành Hà Tiên rồi cùng lực lượng quân Chân Lạp ngược dòng Cửu Long tiến chiếm lại thành Nam Vang. Quân Xiêm bại trận phải rút khỏi Chân Lạp; triều đình Huế bèn đưa Ang Chan II trở lại ngôi vua.
Đuổi được quân Xiêm, Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương lập đồn Đại Nam ở gần Nam Vang để bảo hộ Chân Lạp. Việc cai trị trong nước Chân Lạp đều do quan Việt sắp đặt, còn triều thần Chân Lạp chỉ kiêm nhiệm việc nhỏ.
Cuối năm 1834, vua nước Chân Lạp là Ang Chan II mất mà lại không có con trai, quyền cai trị trong nước về cả mấy người phiên liêu là Trà Long (Chakrey Long) và La Kiên,[2] vốn là người Chân Lạp nhưng nhận quan tước của triều đình Huế.
Năm 1835, Trương Minh Giảng tâu vua xin lập người con gái của Nặc Ông Chân là Ang Mey (Ngọc Vân) lên làm quận chúa, gọi là Chân Lạp quận chúa. Thực chất Ngọc Vân không có thực quyền.
Năm 1836, vua Minh Mạng cho đổi đất Chân Lạp thành Trấn Tây thành, chính thức sáp nhập vào Đại Nam. Ranh giới phía Tây Bắc của Trấn đến biển hồ Tonlé Sap.
Trấn Tây Thành được chia ra làm 33 phủ và 2 huyện . Việt Nam cai trị trực tiếp Cao Miên .
Triều đình Huế hủy bỏ tước hiệu quan chức bản xứ của Chân Lạp và áp dụng quan chế nhà Nguyễn. Lê Đại Cương (sau được thay bằng Dương Văn Phong) được cử làm Tham tán đại thần, đặt một tướng quân, 4 chánh phó lãnh binh, cắt đặt các chức hiệp tán, đề đốc, lang trung, viên ngoại lang, giáo thụ, huấn đạo. Ở các chỗ yếu hiểm, lại đặt chức tuyên phủ, an phủ để phòng ngự.
Năm 1840, nhà vua sai Lê Văn Đức làm khâm sai đại thần, Doãn Uẩn làm phó và cùng với Trương Minh Giảng để kinh lý mọi việc ở Trấn Tây Thành, khám xét việc buôn bán, đo đạc ruộng đất, định lại thuế đinh, thuế thuyền bè buôn bán dưới sông.
Vua Minh Mạng đã cho lệnh tổng kê dân đinh nước Chân Lạp, vừa bị sáp nhập vào lãnh thổ Đại Nam thì có 970.516 người, đang khi đó thì ruộng đất lên đến 4.036.892 mẫu.

1834 TRẬN RẠCH CỦ HỦ - CHỢ MỚI - AN GIANG . ANH HÙNG DÂN TỘC TRƯƠNG MINH GIẢNG ĐÁNH BẠI QUÂN XIÊM LA - THÁI LAN LẦN THỨ 2.
Năm 1700, Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh đã cho đình binh (trú quân) tại tả ngạn sông Hậu (cồn Cây Sao, sau được gọi là Cù lao Ông Chưởng), trước khi qua sông Tiền, trút hơi thở cuối cùng tại Sầm Giang (Rạch Gầm, Mỹ Tho) vào năm đó. Số quân sĩ của Nguyễn Hữu Cảnh là những người Việt mang từ miền Trung vào, họ bắt đầu châm rễ tại những vùng đất mới, trong số đó có vùng Chợ Thủ . Cũng theo Sơn Nam, thì Chợ Thủ là một vị trí chiến lược. Nó cùng với đạo Hùng Ngự (nay là Hồng Ngự) và Tân Châu là 3 cứ điểm quan trọng để coi giữ vùng Cù lao Giêng, lỵ sở của đạo Tân Châu . Nhờ có đồn thủ từ xưa, nên nơi đây phát triển sớm hơn Chợ Mới (gọi Mới là vì mới thành lập sau khi Pháp đến). Và nhờ có gỗ súc từ Campuchia đưa về trạm kiểm lâm Tân Châu với chi phí tương đối nhẹ, cộng với tay nghề khéo léo, khiến Chợ Thủ phát triển ngành mộc, đủ sức cạnh tranh với hàng mộc từ Lái Thiêu (Bình Dương) và Biên Hòa đưa xuống . Bên cạnh nghề mộc, theo Nguyễn Liên Phong, thì người dân ở đây còn thành thạo nghề ươm dệt . Và cũng vì có vị trí chiến lược, mà nơi đây đã xảy ra một trận thủy chiến (hỏa công) ác liệt vào đầu năm Giáp Ngọ (1834). Theo sử liệu thì vào cuối năm Quý Tỵ (1833), sau khi nhận lời cầu viện của Lê Văn Khôi, thủy quân Xiêm tiến đến Thuận Cảng (sông Vàm Nao). Bị tướng Trương Minh Giảng chỉ huy chận đánh, nên họ phải rút lui. Nhưng tháng sau, tháng Giêng năm Giáp Ngọ (1834), họ lại tràn xuống, theo Sông Tiền. Quân Việt lui đến rạch Củ Hủ (Chợ Thủ) thì đánh tan được quân Xiêm là : Chao Phraya Bodin và PhraKlang tấn công , buộc quân Việt Nam phải lui về giữ phủ Ba Cầu Nam thuộc Chân Lạp. Sau đó, quân Xiêm La lại tổ chức tấn công. Tướng Trương Minh Giảng lại cho quân lui về rạch Củ Hủ , đóng đồn hai bên bờ, cố phòng thủ. : " Giặc Xiêm dẫn binh thuyền hơn trăm chiếc, từ Thuận Cảng xuống, bày ngang giữa dòng sông, ngày đêm dùng đại bác bắn phá quân ta. Ta chờ quân chi viện, nhưng giặc ở phía thượng nguồn bèn nhân đêm tối, thừa lúc nước ròng, noi theo hai bên tả hữu bờ sông, phóng lửa đốt thuyền quân ta, rồi giặc đem quân đến đồn phía tả ngạn mà đánh... Quản vệ Phạm Hữu Tâm đốc binh đánh từ giờ Dần đến giờ Tỵ, chém kẻ cầm đầu của giặc là Phi Nhã Khổ Lặc. Quân giặc chết nhiều, thây chồng lên nhau. Giặc liền lui. Vua Minh Mạng) xuống dụ ban khen... Tháng 10 năm Giáp Ngọ (1834), phong Thống chế Phạm Hữu Tâm tước Tân Phúc nam để tỏ rõ công đánh giặc Xiêm La ở Thuận Cảng và ở Chiến Sai. Sau lần đại bại này, quân Xiêm tháo chạy hết về nước. " ... Củ Hủ hay Cù Hu, Cổ Hổ, là con rạch chảy qua làng Tứ Điền ở vùng Chợ Thủ, nay thuộc địa bàn hai xã Long Điền A, Long Điền B, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang .
TRẤN TÂY TƯỚNG QUÂN - TRƯƠNG MINH GIẢNG
Trương Minh Giảng : là một danh thần nhà Nguyễn. Ông được đánh giá là một người "văn võ song toàn", là công thần bậc nhất của nhà Nguyễn, vừa là một võ tướng vừa là một sử gia, từng giữ chức Tổng tài Quốc sử quán. Năm sinh của ông không rõ, chỉ biết ông là người làng Hạnh Thông, huyện Bình Dương, trấn Gia Định. Thân phụ của ông là Lễ bộ Thượng thư Trương Minh Thành (Thành Tín hầu).Ông đỗ cử nhân năm Kỷ Mão 1819, được bổ chức Tư vụ, dần thăng tới Lang trung bộ Binh, rồi đổi sang bộ Hình. Năm 1829 ông thăng chức Tham tri, được phái vào Nam công cán ở Gia Định, khi đổi về kinh ông làm Tả tham tri bộ Hộ, không lâu sau được thăng lên Thượng thư bộ Hộ, kiêm quản Khâm thiên giám. Năm 1832, ông cùng với Thượng thư bộ Lễ Phan Huy Thực biên soạn bộ Liệt Thánh Thực Lục. Cũng thời gian này, ông giữ chức Tổng tài Quốc sử quán, chủ trì việc biên soạn bộ Đại Nam thực lục chính biên. Năm Quý Tị 1833, Lê Văn Khôi nổi loạn chiếm giữ thành Gia Định (bấy giờ được đổi tên là thành Phiên An, còn gọi là thành Bát Quái hay thành Quy). Trương Minh Giảng được sung chức Tham tán quân vụ, cùng Thảo nghịch tướng quân Phan Văn Thúy đem quân vào dẹp loạn Lê Văn Khôi. Dựa vào thành cao hào sâu, quân Lê Văn Khôi cố thủ hữu hiệu, mãi 2 năm sau cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi mới bị dập tắt. Lãnh thổ bảo hộ Chân Lạp : Do công thắng trận, Trương Minh Giảng được vua Minh Mạng khen thưởng một tấm bài bằng ngọc và tiền phi long bằng vàng.
Trong lúc đó, do Lê Văn Khôi cho người cầu viện Xiêm. Quân Xiêm do các tướng Chao Phraya Bodin và PhraKlang chỉ huy tiến vào xâm phạm lãnh thổ Đại Nam, ông cùng Nguyễn Xuân đẩy lui được quân Xiêm, được tấn phong tước "Bình Thành Nam".
Nhân thắng lợi, Trương Minh Giảng cùng Trần Văn Năng đánh đuổi quân Xiêm, giúp Chân Lạp thu phục lại thành Nam Vang, được gia phong tước Bình Thành bá. Rất nhanh chóng sau đó, ông được phong hàm Hiệp biện đại học sĩ, lãnh chức Tổng đốc An Giang. Không lâu sau, ông lại được phong hàm Đông các đại học sĩ, kiêm chức Bảo hộ Cao Miên. Năm 1835, vua Chân Lập Ang Chan mất mà không có con trai nối dõi, theo lời khuyên của Trương Minh Giảng, vua Minh Mạng cho đổi đất Chân Lạp thành Trấn Tây thành, sáp nhập vào Đại Nam. Do công lao trấn giữ Trấn Tây thành, năm 1838, khi triều đình dựng bia võ công, tên ông được khắc hàng đầu đặt trong Võ miếu Huế. Như vậy, Trương Minh Giảng là vị tướng quân có uy quyền cao nhất Đại Nam lúc đương thời. Dấu ấn triện Trấn Tây tướng quân chi ấn kích cỡ 90x90, đóng vào tấu chương của hội đồng tướng quân Trấn Tây ngày 7 tháng 9 năm Mậu Tuất niên hiệu Minh Mệnh 19 (1838).
Trong thời gian làm Trấn Tây tướng quân, kiêm Tổng đốc An - Hà, Trương Minh Giảng gặp phải sự nhiều phản kháng từ người Chân Lạp. Bên cạnh đó, Xiêm cho tướng quân là Chất Tri (Chao Phraya Bodin Decha) chiếm đóng các vùng phía Tây Chân Lạp để tranh giành ảnh hưởng. Các anh em của vua Ang Chan là Ang Em, Ang Duong được Xiêm hỗ trợ, liên tục tấn công quân Đại Nam đóng ở Trấn Tây. Suốt thời gian làm Đại tướng quân trấn thủ Trấn Tây, Trương Minh Giảng và Chất Tri liên tục tranh giành ảnh hưởng và đối đầu. Đây có thể xem là cuộc giằng co giữa hai vị đại tướng có quyền lực nhất ở hai nước Việt - Xiêm lúc bấy giờ trên đất Chân Lạp.
Danh sách địa danh Phủ huyện thuộc Trấn Tây Thành .
Tên Việt & Địa danh tương ứng ngày nay :
Nam Vang 南榮 Phnôm Pênh
Kỳ Tô/Thời Tô (Thời Thâu) 其蘇/辰蘇 (辰萩) Srey Santhor, tỉnh Kandal
Tầm Đôn (Tầm Giun) 尋敦 (尋惇) giáp đất Gia Định, có lẽ là Romdoul, tỉnh Svay Rieng
Tuy Lạp (Xui Rạp, Lôi Lạp) 綏臘 giáp đất Gia Định, có lẽ là vùng mỏ vẹt Svay Rieng
Ba Nam (Ba Cầu Nam) 巴南 (巴求南) Peam Ro, Peam Mean Chey, tỉnh Prey Veng
Ba Lai (Ba Lầy) 巴來 (巴淶) Baray, tỉnh Kampong Thom
Bình Xiêm (Bông Xiêm) 平暹 (凡暹) Kampong Siem, tỉnh Kampong Cham
Kha Bát (Lợi Ỷ Bát) 哥捌 (利椅捌) Prey Kabbas, tỉnh Takeo
Lô Viên (Lô Yêm, Lư An) 爐圓 (盧淹, 閭安) phía tây Phnôm Pênh, Lvea Aem, tỉnh Kandal
Hải Đông (Bông Xui) 海東 (楓吹) Kampong Svay, tỉnh Kampong Thom
Kim Trường 金長 giáp An Giang
Thâu Trung (Phủ Trung) 輸忠 (中府)
Ca Âu (Ca Khu) 歌謳 (歌塸)
Vọng Vân (Trung Hà) 望雲 (中河)
Hà Bình 河平
Trưng Lai (Trưng Lệ) 徵來 (征例)
Sơn Phủ 山甫
Sơn Bốc 山卜 Sambour
Tầm Vu (Mạt Tầm Vu) 尋於 (末尋於) Tây nam Phnôm Pênh, tỉnh Kampong Speu
Khai Biên 開邊 vùng duyên hải tỉnh Koh Kong
Hải Tây (Phủ Lật) 海西 (撫栗) Pursat
Kha Lâm (Ca Rừng) 哥林 (柯棱) giáp đất Gia Định
Thê Lạp 梯笠
Cẩm Bài 錦牌
Lô Việt 爐越 Lovek, tỉnh Kampong Chhnang
Long Tôn 龍樽 phía bắc Phnôm Pênh
Quảng Biên 廣邊 Kampot
Hóa Di (Ba Di) 化夷 (巴夷)
Chân Tài (Chân Lệ) 真才 (真例) đông bắc Phnôm Pênh về mạn Kampong Cham
Ý Dĩ (Phủ Phủ) 薏苡 phía bắc Kampong Chhnang
Chân Thành (Chân Thiêm) 真誠 (真占) huyện Hà Dương, An Giang
Mật Luật (Ngọc Luật) 密律 (玉律) huyện Tây Xuyên, An Giang
Ô Môn 烏門 huyện Phong Phú, An Giang
huyện Cẩn Chế 芹制 Cần Ché
huyện Cẩn Đô 芹漇 Kanhchor (Prek Chamlak) phía nam Cần Ché
Năm 1841, Minh Mạng qua đời, Thiệu Trị lên nối ngôi. Thiệu Trị không có nhiều tham vọng về lãnh thổ như vua cha. Lúc bấy giờ, tình hình Trấn Tây đang rối ren vì gặp phải sự chống đối mãnh liệt của người Chân Lạp (Cao Miên), vua Thiệu Trị sau khi bàn bạc với quan lại trong triều đã quyết định rút quân, bỏ Trấn Tây thành - Phnom Penh ngày nay , và toàn bộ Trấn Tây, phục hồi vương quốc Cao Miên. Trương Minh Giảng phải theo lệnh rút quân về trấn thủ An Giang và Anh Hùng Dân Tộc Trương Minh Giảng qua đời tại An Giang năm 1841.
Năm 1842, quân Xiêm La lại kéo sang khi nghe tướng Trương Minh Giảng từ trần - đời Thiệu Trị , chiếm vùng đất Thất Sơn,An Giang nhưng bị tướng Nguyễn Công Trứ đánh bại , quân Xiêm La phải rút lui về phần lãnh thổ Cao Miên ./.
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn