NHỮNG VÌ SAO ĐẤT NƯỚC - VIỆT NAM DƯỚI THỜI PHÁP THUỘC : VUA DUY TÂN - NGƯỜI ANH HÙNG YÊU NƯỚC ,THƯƠNG DÂN TỘC NHƯNG SA CƠ, LỠ VẬN (26-12-1945) .

06 Tháng Năm 20233:28 CH(Xem: 645)
DUY-TÂN SỬ- LƯỢC:
Sau khi vua Thành-Thái bị ép thoái vị năm 1907, Pháp đưa Hoàng-Tử Vĩnh-San 8 tuổi lên ngôi, vương hiệu Duy-Tân.
Vua Duy-Tân: 1899 - 1945
Trị vì: 1907 - 1916
Vua Duy-Tân còn rất trẻ, nhưng rất thông minh và có khí khái của một ông vua. Sau ngày đăng quang, Duy-Tân đã hoàn toàn thay đổi, nên một nhà báo Pháp đã phát biểu: “Un jour de trône a complètement changé la figure d’un enfant de 8 ans” (Một ngày lên ngôi đã thay đổi hoàn toàn bộ mặt của một cậu bé 8 tuổi). Duy-Tân, ”Một Anh Hùng Dân Tộc!” Năm 17 tuổi, Ngài đã hy sinh mối tình đầu, rồi hy sinh ngai vàng để dấn thân vào cuộc khởi nghĩa ngày 3 tháng 5, 1916; Cuộc khởi nghĩa bị tiết lộ nên thất bại, Ngài phải chịu cảnh lưu đầy đi đảo La Réunion, gần Phi-Châu. Duy-Tân cũng là 1 trong 3 vị vua (Hàm-Nghi, Thành-Thái, Duy-Tân) đã nối tiếp nhau nổi lên chống ngoại xâm để nhận lấy cảnh lưu đầy! Thế mà sự nghiệp của các vị vua này lại không mấy chúng ta biết đến. Có lẽ vì trong thời kỳ đô hộ, những tài liệu liên quan đến cách mạng, liên quan đến chống ngoại xâm không mấy ai giám lưu giữ để truyền bá về sau.
DUY-TÂN VỚI NHỮNG CHÍ KHÍ CỦA MỘT ÔNG VUA:
Duy-Tân là một ông vua rất thương dân và được lòng dân.
- Năm 1908, miền Trung thường hay có loạn, chống thuế . . . Vua lúc ấy mới 9 tuổi mà đã biết phán với triều thần rằng: Nếu trong nước hay có loạn là vì dân thiếu thốn và đói. Ta phải có kế hoạch “tăng gia sản xuất” để có thêm lương thực. Riêng ta, lương của ta mỗi tháng 500$. Từ nay ta chỉ nhận 200$ thôi, còn 300$, ta giao cho các thầy tùy nghi giúp cho đồng bào đang đói.
-Thượng thư Hồ-Đắc-Trung là người thường hay gần bên vua. Có lần vua tỏ ra không vui hỏi: Thày nghĩ sao về người Pháp cai trị chúng ta? Hồ-Đắc-Trung tâu: chúng ta là người bị trị còn biết nói sao! Xin Hoàng-Thượng hãy thận trọng, cố gắng học hành, đường còn dài, còn nhiều vận hội sau này.
- Năm 1912, nghe tin khâm sứ Joseph Mahé mở chiến dịch tìm vàng. Ông lấy tượng vàng đặt trên lầu chùa Thiên-Mụ và đem người tới đào mả vua Tự-Đức để lấy vàng bạc, châu bắu. Duy-Tân đã thân hành tới để ngăn chặn, nhưng không kịp. Duy-Tân rất giận và gửi thư cho chính phủ Pháp yêu cầu khiển phạt viên chức lộng hành này. Thơ nhờ viên toàn quyền chuyển qua Pháp. Nhưng viên toàn quyền đã không chuyển mà đích thân đem thơ vào hoàng cung đưa cho hoàng-thái-hậu, mẹ lớn của vua coi (Bà là con gái cần-chánh đại-học-sĩ Nguyễn-Thân. Tuy bà không có con, nhưng bà vẫn có một thế lực lớn trong triều). Bà đòi vua tới, la rầy và bắt vua phải xin lỗi viên toàn-quyền. Dù không có lỗi, nhưng là một ông vua có hiếu nên phải nghe theo lời mẹ.
- Đầu năm 1914, Duy-Tân họp các quần thần để chọn người đi Pháp, trình bầy và cùng chính phủ Pháp sửa đổi bản hiệp ước Patenôtre ký ngày 6 tháng 6, 1884 mà Ngài cho là bất công và Pháp đã vi phạm nhiều. Nhưng không ai giám nhận sứ mạng này. Việc này cũng tới tai hoàng-thái-hậu, bà lại gọi và la rầy nhà vua.
- Một hôm khác vua phàn nàn: Không có một ông thượng thư nào chịu nghe ta cả, ta là vua chỉ “làm vì” thôi! Trong khi ấy có thượng thư Nguyễn-Hữu-Bài nghe được liền tâu: Tâu Hoàng-Thượng, có phải Ngài muốn đánh Pháp ư?. Nhưng Ngài lấy gì mà đánh? Ngài không có quân đội! Ngài cũng không có tài chánh! Ngài đánh bằng gì? Vua Duy-Tân suy nghĩ một lúc rồi nói lớn: Lúc này nước Pháp đang có chiến tranh với Đức (Từ 1914), đây là lúc ta phải khuyến khích dân cùng đứng dậy đòi độc lập cho nước nhà.
- Năm nhà vua 15 tuổi, Ngài triệu tập tất cả 6 đại thần trong phụ-chánh, đòi các vị phải ký vào biên bản về những sai trái của Pháp để đích thân nhà vua đem qua tòa khâm sứ, nhưng các đại thần sợ Pháp kiếm chuyện làm khó dễ nên không ai giám ký, và phải cầu cứu hoàng-thái-hậu can gián nhà vua. Từ đó nhà vua không những có ác cảm với Pháp, mà còn có ác cảm với triều thần của Ngài.
VUA DUY-TÂN VỚI CUỘC KHỞI NGHĨA NGÀY 3 THÁNG 5, 1916:
NHỮNG LỰC LƯỢNG THAM DỰ:
1/ Mười mấy ngàn lính Việt do Pháp tuyển mộ và huấn luyện để gửi qua Pháp cho chiến tranh Pháp-Đức, phần lớn đã được ta kết nạp. Họ sẵn sàng tiếp ứng cho cách mạng.
2/ Viên đại tá lính Lê-Dương (Légion Étrangère) gốc người Đức, đang chỉ huy hơn 3,000 lính mộ. Ông ta đã được Trần-Quang-Trứ (thư ký tòa khâm-sứ Pháp), thuyết phục và lôi cuốn. Ông ta sẵn sàng hợp tác với cách mạng (Vì Đức đang có chiến tranh với Pháp, nên lúc này người Đức ở đâu cũng không thích Pháp).
3/ Trần-Đại-Trình ở tòa khâm sứ Pháp, đang chỉ huy mấy chục lính gác ở đây sẽ quay súng và hiệp với cách mạng.
4/ Một đội quân Nam-Ngãi hiệp cùng dân quân vùng phụ cận kinh thành, bao vây tòa khâm sứ Pháp và bắt tay với Trần-Đại-Trình ở bên trong.
5/ Các tỉnh: Quảng-trị, Quảng-Nam, Quảng-Ngãi, Đà-Nẵng, Hội-An, Tam-Kỳ, Bình-Định, ngoài lực lượng lính mộ của Pháp mà ta đã kết nạp, còn có nghĩa quân được võ trang bằng vũ khí từ tòa lãnh sự Đức ở Bangkok đưa vào.
6/ Tôn Thất Đệ, Nguyễn Quang Siêu chỉ huy các đội thị vệ bảo vệ nhà vua.
7/ Phan-Bội-Châu (Người đã đề xướng phong trào “Đông-Du” và tổ chức “V.N. Quang Phục Hội”), đang ở Trung-Hoa đã bí mật gửi mai-sơn Nguyễn-Thượng-Hiền sang Thái-Lan, liên lạc với tòa lãnh sự Đức. Tòa lãnh sự Đức ở đây ủng hộ cho cách mạng 10,000 tiền Thái-Lan, và khuyến khích, nếu hoạt động mạnh, có tiếng vang mà chính phủ Đức nghe tới sẽ có viện trợ chính thức nhiều hơn.
8/ Kỳ Bộ Quang-Phục-Hội của Phan-Bội-châu do Thái-Phiên phụ trách đã hoạt động mạnh, và từ năm 1914 Pháp có chiến tranh với Đức. Đây là cơ hội thuận lợi để dân ta vùng lên tranh đấu dành độc lập.
9/ Cờ khởi nghĩa, nền đỏ với 5 ngôi sao trắng, ý nghĩa “Ngũ Tinh Tụ Tĩnh” lấy ở Kinh-Dịch ra.
Trần-Cao-Vân và Thái-Phiên thuộc Việt-Nam Quang-Phục-Hội, giả người đi câu, vào Thành-Nội, bí mật gặp vua để trình bầy kế hoạch. Vua Duy-Tân chấp thuận toàn bộ kế hoach. Ngài chỉ lo nếu Pháp sớm đưa 3,000 lính mộ ở đồn Mang-Cá mà cách mạng đã kết nạp, xuống tầu qua Pháp, nên Ngài hối thúc hành sự sớm. Ngày khởi nghĩa định vào 1 giờ sáng ngày 3 tháng 5, 1916. Trần-Cao-Vân và Thái-Phiên hiệp với Tôn-Thất-Đệ và Nguyễn-Quang-Siêu đưa vua tạm rời khỏi hoàng thành.
Nhưng chẳng may, trước đó một ngày, một tên lính khố xanh tên Võ-An, là lính ở dinh án sát Quảng-Ngãi, có người anh cũng là lính và đã được cách mạng kết nạp nên biết ngày khởi nghĩa. Hắn căn giặn người em phải cẩn thận ngày đó. Rồi người em (Võ-An) tỏ ra bối rối, lo sợ lộ ra mặt. Án sát Phạm-Liễu thấy khác thường nên gạn hỏi. Hắn sợ nên đã khai ra. Phạm-Liễu báo cáo cho công sứ De Tastes. De Tastes mật điện cho khâm sứ ở Huế bấy giờ là Francois Charles (Là cha nuôi của Bảo-Đại sau này). Francois Charles ra lệnh thu hết súng và cấm trại lính người Việt. Mặt khác điện cho các tỉnh đề phòng.
Trần-Quang-Trứ, người có công chiêu dụ được viên đại tá gốc Đức, và lính đồn Mang-Cá, thấy thâu súng và cấm trại lính người Việt, đoán việc đã bại lộ. Đêm khuya Trứ tìm đến bến Thương-Bạc, ở đây Trứ gặp Trần-Cao-Vân và thấy nhà vua đã cải dạng thành thường dân. Trứ thấy chuyện thực sự bại lộ nên tìm cách lo cho bản thân. Trứ trở về, lén vào toà khâm sứ tố cáo và chỉ đường đi của nhà vua. Trong khi Trần-Cao-Vân và Thái-Phiên . . . định đưa vua tới một địa điểm bí mật, nhưng phải nghỉ khuya ở một ngôi chùa bên núi Ngũ-Phong gần Nam-Giao. Đến sáng, khi nhà vua và đoàn tùy tùng sửa soạn lên đường thì có sự xuất hiện của Le Fol, đổng lý văn phòng tòa khâm sứ. Có Sogny, chánh mật thám Huế. Có Lanneluc là giám binh với mấy chục lính khố xanh, có Trần-Quang-Trứ - tất cả tới bắt nhà vua. Bên triều đình có Võ-Liêm, thuộc bộ lễ. Có Hồ-Hành là đội cơ với gần chục lính tới đón vua về.
Le Fol (nói giỏi tiếng Việt) thấy vua trịnh trọng ngả mũ: Tâu Hoàng-Thượng, ngài ngự gíá dạo chơi xong rồi chứ? Duy-Tân bình thản, nhún vai đáp: Các ông chả hiểu được đâu! Trần-Quang-Trứ cũng tiến tới: Tâu Hoàng-Thượng, tôi là người cùng Trần-Cao-Vân hội kiến Hoàng-Thượng tối qua ở bến Thương-Bạc, chẳng hay Hoàng-Thượng có nhớ không? Duy-Tân nhìn Trứ một cách khinh bỉ và nói: Phải, ta nhớ ngươi, đồ phản bội! Rồi vua quay mặt đi.
Bên triều thần gặp vua mừng mừng, tủi tủi và năn nỉ vua trở về hoàng cung. Vua từ chối nói: Thà bị bắt, chứ không trở lại Hoàng cung. Lính hầu dương lọng rước, vua gạt đi và Ngài đi bộ thẳng tới chiếc xe của Pháp để chịu bắt. Pháp đưa Duy-Tân về giữ ở đồn Mang-Cá. Khâm sứ Pháp ở Huế và toàn quyền Pháp của Đông-Dương, thuyết phục vua trở lại ngai vàng, nhưng nhà vua từ chối, nói: Các ông bắt tôi phải làm vua, nhưng các ông lại không coi tôi như một ông vua.
Trần Cao Vân (1866) một trong những lãnh tụ của VN Quang-Phục-Hội , Thái Phiên, Tôn Thất Đệ và Nguyễn Quang Siêu bị còng tay dẫn về Huế tống giam. Cả 4 vị bị chém ngày 16 tháng 5, 1916 tại An-Hoà, gần Huế. Tại các tỉnh cũng xẩy ra nhiều vụ xử tử và tù tội. Hàng mấy trăm người bị đầy đi Côn-Đảo và Lao-Bảo. Các tỉnh khác hưởng ứng chậm thì ít bị đàn áp.
VUA DUY-TÂN VỚI BẢN ÁN LƯU ĐẦY:
Pháp buộc triều đình phải xử án vua Duy-Tân, và triều đình đã ủy nhiệm Hồ-Đắc-Trung thảo bản án.
Mặt khác, lúc trong ngục, Trần-Cao-Vân lo cho vua bị sát hại. Ông viết thư (Trên giấy cuộn thuốc hút), trần tình với Hồ-Đắc-Trung, ông nhận lãnh hết công việc bạo động và khẩn khoản Hồ-Đác-Trung tìm cách cứu vua. cuối thư ông viết: Trung là ai? Nghĩa là ai? Cân đai võng lọng là ai? Thà để cô thân tử biệt! Trời còn đó, đất còn đó, xã tắc sơn hà còn đó, mong cho thánh thượng sinh toàn! Sư bà Diệu-Không thuật lại lời khai của vua Duy-Tân khi bị Pháp chất vấn:
Hỏi: Ngài nghĩ sao về mảnh giấy này của ông Trần-Cao-Vân?
Đáp: ông Trần-Cao-Vân làm chuyện lớn không thành, sợ tội tử hình, nên thư cầu cứu ông Hồ-Đắc-Trung (Lúc này Duy-Tân cũng không biết mảnh giấy Trần-Cao-Vân đã viết gì).
Hỏi: Vì lẽ gì ông Trần-Cao-Vân lại tin cậy Hồ-Đắc-Trung mà chuyển thư này cho ông ấy?
Đáp: Vì ông Hồ-Đắc-Trung hay thương người, cứu người, như ông đã cứu 42 nhà cách mạng ở tỉnh Quảng-Nam năm 1908, lúc ông đang làm tổng đốc ở đây.
Hỏi: Vì lẽ gì trước kia ngài lại từ hôn với tiểu thơ nhà họ Hồ?
Đáp: Vì tôi thương gia đình ông ấy, sợ gia đình ông ấy bị liên lụy. Hơn nữa các đồng chí của tôi khuyên tôi nên tránh xa gia đình ấy để bảo mật cho đại cuộc.
Hỏi: Ngài có bảo đảm là ông Hồ-Đắc-Trung vô tội trong vụ bạo loạn này không?
Đáp: Tôi hoàn toàn bảo đảm cho ông ấy.
Thế là mấy ngày sau thân sinh tôi được Pháp trả tự do. Triều đinh tiếp tục ủy nhiệm thân sinh tôi thảo bản án nhà vua.
Nội dung bản án:
Vua Duy-Tân còn nhỏ tuổi, tuy rất thông minh, nhưng còn cạn nghĩ. Bị những người mưu phản khích thích lòng ái quốc nên nghe theo. Nếu đúng tuổi trưởng thành thì tội ngài là nặng. Song Ngài còn vị thành niên, tưởng không đáng trách mà nên thương tình! Về phía chính phủ bảo hộ thì Ngài có tội phản nghịch, nhưng về phía chính phủ Nam Triều, ngài là một ông vua rất thương dân và được lòng dân. Như vậy xét về tội thì Ngài có tội với chính phủ bảo hộ. Còn đối với nhân dân Việt-Nam thì Ngài không có tội gì cả. Vậy nên xét tình mà truất phế Ngài và để Ngài được trở về với ngôi vị hoàng tử như trước. Như vậy lòng dân mới không oán than chinh phủ Pháp là khắc nghiệt.
Bản án được Pháp đồng ý, nên tuy bị đi đầy ở đảo La Réunion, gần Phi-Châu, Ngài vẫn giữ tước vị hoàng tử. Ở đảo La Réunion, Duy-Tân học vô tuyến điện, mở tiệm bán và sửa radio. Ngài cũng học văn hóa và thi tú tài ở đây. Ngài đã viết nhiều bài cho tờ Le Peuple (Nhân Dân) và tờ Le Progrés (Tiến Bộ). Trong bài “Varíations Sure Une Lyre Briées” (Những Biến Tấu Của Một Cây Thất-Huyền-Cầm Gẫy Vỡ) đã được giải nhất văn chương của Hàn-Lâm-Viện khoa học và văn chương La Réunion năm 1924.
Đi đầy, Ngài đưa theo đệ nhất vương phi Mai-Thị-Vàng khi bà có thai 3 tháng, nhưng rồi hư thai. Ở đây được 2 năm, bà đòi về Việt-Nam, vì không chịu khí hậu ở đây. Sau nhiều năm xa cách hoàng phi, năm 1925, Duy-Tân gửi về Việt-nam một đơn xin ly dị và một thơ cho hội đồng hoàng tộc xin chấp thuận để bà Vàng đi lấy chồng khác, khi bà ở tuổi 27. Nhưng bà Vàng không chịu ly hôn và nhất định thủ tiết cho đến khi mất ở tuổi 75.
Khi còn sống bà thường ngâm:
Gìn vàng giữ ngọc cho trong, cho vừa lòng Kẻ chân mây cuối trời!. Hay:
Dù đá có nát, nhưng vàng chẳng phai. Thủy trung, trung thủy, vẫn giữ lấy lời thủy trung!
Sau khi hoàng phi về Việt-Nam, Duy-Tân lần lượt sống với 3 phụ nữ Pháp không hôn thú (Vì bà Vàng không chịu ly hôn). Bà thứ nhất hơn Ngài 10 tuổi, có 1 con trai. Bà thứ 2 kém Ngài 13 tuổi, có 4 trai, 4 gái. Bà thứ 3 kém Ngài 24 tuổi có 1 con gái. Như vậy Duy-Tân có tất cả 10 con – 5 trai, 5 gái. Một trong những người con trai có tên là Yves Claude / Bảo-Vang. Vào tháng 4, 1987, Bảo-Vang đã mang di hài vua cha Duy-Tân từ Trung-Phi về Huế, và an táng tại An-Lãng, cạnh vua cha Thành-Thái. Bảo-Vang cưới bà Jessy Tarby, có 10 con – 7 trai, 3 gái, hiện đang sinh sống tại Nha-Trang, Khánh-Hoà, VN.
VUA DUY-TÂN TRỞ THÀNH TRỌNG TÂM TRONG CHÍNH SÁCH ĐÔNG DƯƠNG CỦA TƯỚNG DE GAULLE:
Tướng Charles De Gaulle
1890 – 1970
Tổng Thống Pháp: 1958 – 1969
Khi De Gaulle còn ở cấp tướng, ông đã quyết định nhiều vấn đề quan trọng của nước Pháp. Sau khi đắc cử tổng thống năm 1958, De Gaulle đã trao trả độc lập cho 13 thuộc địa của Pháp ở Phi-Châu. Năm 1969 ông từ chức tổng thống khi có những cuộc biểu tình của sinh viên chống chính phủ ông, và ông qua đời năm 1970.
Khi quân Anh vào Việt-Nam (dưới vĩ tuyến 16) để giải giới quân Nhật, và lúc này cũng là lúc Pháp đã thành công việc đánh đuổi Đức-Quốc-Xã ra khỏi nước Pháp, De Gaulle liền nghĩ ngay đến Đông-Dương, một cựu thuộc địa của Pháp. Lợi dụng lúc này, De Gaulle đã gửi quân Pháp theo chân quân Anh để trở lại Đông-Dương. Khi Pháp đã vào được Đông-Dương, Duy-Tân trở thành quân bài lớn của De Gaulle. De Gaulle gặp Duy-Tân, và đã yêu cầu Ngài trở lại ngôi hoàng đế Việt-Nam, ba miền Trung, Nam, Bắc thống nhất dưới một chính phủ độc-lập, tự-do, và tự tổ chức nền kinh tế của mình. Pháp tạm đảm trách việc phòng thủ biên cương cho Việt-Nam trong một thời hạn nào đó. Như vậy để bớt gánh nặng cho VN phải tạo lập một quân đội khi mà Việt-Nam chưa đủ khả năng để duy trì và tăng trưởng nó.
Ở đây, tưởng cũng nên nhắc qua sự “thành công” của tướng De Gaulle, việc ông chống lại chính phủ Vichy đã đầu hàng và cam làm tay sai cho phát xít Đức. Nhân Lúc này, đã có nhiều thanh niên Pháp và tàn binh của chính phủ Vichy chạy ra nước ngoài. Riêng tại Anh quốc đã có gần 10 ngàn người chạy sang đây. De Gaulle cũng sang đây, ông nhờ đài phát thanh BBC London để kêu gọi tất cả thanh niên Pháp đang ở ngoài nước và trong nước hãy đoàn kết cùng ông thành “Lực Lượng Giải Phóng Quốc Gia” (National Libération Force”. Và ông đã thành công ngoạn mục. Lời kêu gọi hữu hiệu nhất của De Gaulle là: Nous avons perdu une bataille, mais nous n’avons pas perdu la guerre (chúng ta đã thua một trận đánh, nhưng chúng ta chưa thua cuộc chiến).
Lúc này, De Gaulle trở thành “thần tượng”, và là “hình mẫu” cho hoạt động cứu nước của Duy-Tân. Duy-Tân cũng đã ủng hộ De Gaulle bằng cách dùng vô tuyến điện của mình để thâu thập tin tức từ bên ngoài rồi chuyển cho lực-lượng giải-phóng Quôc-Gia của De Gaulle. Vụ này bị tiết lộ, Duy-Tân bị tù 6 tuần lễ. Vì chinh quyền La Réunion lúc đó thuộc chính quyền Vichy (đang là tay sai của Đức).
Sau đó, ông phục vụ ba tháng với cấp bậc hạ sĩ vô tuyến trong phe kháng chiến của tướng Legentilhomme và đại tá Alain de Boissieu. Bị giải ngũ vì lý do sức khoẻ, Duy Tân nhờ thống đốc La Réunion là Capagory can thiệp cho ông đăng vào bộ binh Pháp dưới quyền của tướng Catroux với cấp bậc binh nhì. Một thời gian sau ông được thăng lên chuẩn úy rồi sang châu Âu.
Ngày 5 tháng 5 năm 1945, có lệnh đưa chuẩn úy Duy Tân về phòng Quân sự của tướng Charles de Gaulle ở Paris. Duy Tân đến Pháp vào tháng 6 năm 1945 thì Đức đã đầu hàng ngày 8 tháng 5. Ngày 20 tháng 7 năm 1945, ông được đưa qua phục vụ tại Bộ tham mưu của Sư đoàn 9 Bộ binh Thuộc địa (9ème DIC) đóng ở Forêt Noire, Đức.
Ngày 29 tháng 10 năm 1945, Charles de Gaulle ký một sắc lệnh hợp thức hoá những sự thăng cấp liên tiếp của Duy Tân trong Quân đội Pháp: thiếu uý từ 5 tháng 12 năm 1942, trung uý từ 5 tháng 12 năm 1943, đại uý tháng 12 năm 1944 và thiếu tá ngày 25 tháng 9 năm 1945.
Ngày 14 tháng 12 năm 1945, Charles de Gaulle tiếp cựu hoàng Duy Tân. Trong tập Hồi ký chiến tranh, tướng de Gaulle ghi:
“Tôi sẽ tiếp Cựu hoàng (Vĩnh San) và sẽ cùng ông xét xem chúng tôi sẽ làm được những gì? Đó là một nhân vật đầy cương nghị. Mặc dù bị lưu đày ròng rã 30 năm trời, hình ảnh của ông không hề phai mờ trong tâm hồn của dân tộc Việt Nam”
Duy Tân đã từng tâm sự:
“Riêng về phần tôi, lòng yêu quê hương Việt Nam không cho phép tôi để ngỏ cửa cho một cuộc tranh chấp nội bộ nào. Điều mà tôi mong muốn là tất cả các con dân Việt Nam ý thức được rằng họ là một quốc gia và ý thức ấy sẽ thúc đẩy họ dựng lên một nước Việt Nam xứng đáng là quốc gia. Tôi tưởng rằng tôi sẽ làm tròn bổn phận của một công dân Việt Nam khi nào mà tôi làm cho những người nông dân Lạng Sơn, Huế, Cà Mau ý thức được tình huynh đệ của họ. Nghĩa hợp quần ấy được thực hiện dưới bất cứ chế độ nào: tự-do , cộng sản , bảo hoàng hay quân chủ, điều đó không quan trọng, điều quan trọng là phải cứu dân tộc Việt Nam khỏi cái họa phân chia”.
Sau khi gặp De Gaulle, vua Duy-Tân gặp gỡ và nói chuyện với một số Việt kiều và du học sinh tại Pháp:
Người Pháp đã công nhận chúng ta là một quốc gia độc lập trong Liên-Hiệp-Pháp. Điều này không trái với quyền lợi hiện tại của quốc gia. Dần dà ta sẽ đòi thêm quyền hạn.
Chúng ta biết làm gì hơn trước binh lực hùng mạnh của Pháp. Chúng ta đã thấy gương chống Pháp, mà tôi đây là nạn nhân của một lối chống nóng nẩy, vụng về.
Tôi nghĩ rằng tôi sẽ làm tròn bổn phận khi mà tôi có thể làm cho người nông dân ở Lạng-Sơn, người nông dân ở Huế và người nông dân ở Cà-Mâu, ý thức được tình huynh-đệ của họ.
Tình huynh-đệ ấy, nghĩa hợp-quần ấy được thực hiện dưới bất cứ thể chế nào: tự-do, cộng-sản hay bảo-hoàng ... điều đó không quan trọng.
Điều quan trọng là phải cứu được dân tộc Việt-Nam khỏi cái họa phân chia.
Tướng Charles De Gaulle quyết định sẽ đích thân đưa Duy-Tân hồi loan vào đầu tháng 3, 1946.
Ngày 24 tháng 12 năm 1945, Duy Tân lấy phi cơ Lockheed C-60 của Pháp cất cánh từ Bourget, Paris để trở về La Réunion thăm gia đình trước khi thi hành sứ mạng mới. Lúc 13 giờ 50, phi cơ rời Fort Lami để bay đến Bangui, trạm kế tiếp. Ngày 26 tháng 12 năm 1945, khoảng 18 giờ 30 GMT, máy bay rớt gần làng Bassako, thuộc phân khu M'Baiki, Cộng hoà Trung Phi. Tất cả phi hành đoàn đều thiệt mạng, gồm có một thiếu tá hoa tiêu, hai trung uý phụ tá, hai quân nhân trong đó có cựu hoàng Vĩnh San và bốn thường dân.
Theo nhiều người đây có thể là một vụ mưu sát. Việc vua Duy Tân trở lại Việt Nam sẽ gây khó khăn cho Anh trong việc trao trả các thuộc địa. Cũng trong Destin tragique d’un Empereur d’Annam, E.P Thébault viết:
Ngày 17 tháng 12 năm 1945 – mười hôm trước khi tử nạn – Duy Tân có linh cảm tính mạng ông bị đe doạ. Khi cả hai đi ngang – lần chót – vườn Tuileries, cựu hoàng nắm tay Thébault nói: "Anh bạn già Thébault của tôi ơi! Có cái gì báo với tôi rằng tôi sẽ không trị vì. Anh biết không, nước Anh chống lại việc tôi trở về Việt Nam. Họ đề nghị tặng tôi 30 triệu quan nếu tôi bỏ ý định ấy”.
Ngày 28 tháng 3 năm 1987, hài cốt của vua Duy Tân được gia đình đưa từ M'Baiki, Trung Phi về Paris làm lễ cầu siêu tại Viện Quốc tế Phật học Vincennes và sau đó đưa về an táng tại An Lăng, Huế, cạnh nơi an nghỉ của vua cha Thành Thái, vào ngày 6 tháng 4 năm 1987.
Ngày 5 tháng 12 năm 1992, thành phố Saint-Denis đảo La Réunion khánh thành một đại lộ mang tên ông: Đại lộ Vĩnh San.
Năm 2010, phố Duy Tân được đặt tên tại phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, Hà Nội.
Vua Duy Tân có 5 người con (3 trai, 2 gái)
CUỘC ĐỜI DUY-TÂN ĐÃ BAO LẦN DANG DỞ?
- Dang dở vì đã hy sinh mối tình đầu để tránh mối họa có thể sẩy ra cho gia đình người mình yêu!
- Dang dở vì đã hy sinh ngai vàng của mình cho tiền đồ đất nước.
- Dang dở vì một tai nạn (hay mưu sát) để mất đi cơ hội trở về phục vụ quốc dân!
Vua Duy Tân và Giai thoại Muôn đời .
Một lần nhà vua thiếu niên từ bãi tắm Cửa Tùng lên (hàng năm ông hay ra đây nghỉ mát), tay chân dính cát. Thị vệ bưng chậu nước cho vua rửa. Duy Tân vừa rửa vừa hỏi:
"Khi tay bẩn thì lấy nước mà rửa, khi nước bẩn thì lấy chi mà rửa ?"
Người thị vệ chưa biết trả lời ra sao thì vua Duy Tân nói tiếp:
"Nước bẩn thì phải tìm cách trừ khử những chất ngoại lai lẫn vào trong đó, hiểu không ?"
Một lần khác vua Duy Tân ra ngồi câu cá trước bến Phu Văn Lâu. Thượng thư Nguyễn Hữu Bài cùng đi. Mãi không thấy con cá nào cắn câu, vị hoàng đế trẻ bèn ra câu đối:
Ngồi trên nước không ngăn được nước, trót buông câu nên lỡ phải lần.
Sau khi nghĩ ngợi một lúc, Thượng thư Nguyễn Hữu Bài nghĩ ngợi rồi đối lại:
Nghĩ việc đời mà ngán cho đời, đành nhắm mắt đến đâu hay đó.
Nghe đồn Duy Tân phê Nguyễn Hữu Bài là người cam chịu trước số mạng. Nhà vua còn bảo:
"Theo ý trẫm, sống như thế buồn lắm. Phải có ý chí vượt gian khó thì cuộc sống mới có ý nghĩa."/.
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn