Quần đảo Trường Sa (tiếng Anh: Spratly Islands; giản thể: 南沙群岛; phồn thể: 南沙群島; Hán-Việt: Nam Sa Quần đảo; bính âm: Nánshā Qúndǎo; tiếng Mã Lai và tiếng Indonesia: Kepulauan Spratly; tiếng Tagalog: Kapuluan ng Kalayaan) là một tập hợp các thực thể địa lý được bao quanh bởi những vùng ngư nghiệp trù phú đồng thời sở hữu trữ lượng dầu mỏ, khí đốt lớn thuộc biển Đông. Ngày nay, quần đảo này đang ở trong tình trạng tranh chấp lãnh thổ ở các mức độ khác nhau giữa 6 quốc gia, lần lượt là Brunei, Đài Loan, Trung quốc, Malaysia, Philippines và Việt Nam.
Ở cấp độ quốc tế, phạm vi của khái niệm Spratly Islands vẫn chưa được xác định rõ và đang trong vòng tranh cãi. Ở cấp độ quốc gia cũng có các cách hiểu khác nhau. Tuy Đài Loan, Trung quốc và Việt Nam trên danh nghĩa đều tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo, nhưng khái niệm quần đảo Nam Sa trong nhận thức của Đài Loan và Trung quốc là bao hàm toàn bộ các thực thể địa lý nằm bên trong phần phía nam của đường chín đoạn. Đối với Philippines, phạm vi tuyên bố chủ quyền của nước này bao trùm hầu hết quần đảo và được gọi là Nhóm đảo Kalayaan. Về phần Malaysia, nước này đòi hỏi một số thực thể ở phía nam của quần đảo. Cuối cùng, với Brunei, hiện chưa rõ nước này đòi hỏi cụ thể thực thể địa lý nào vì Brunei mới chỉ đưa ra yêu sách về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa mà trong vùng đó có vài thực thể thuộc vào quần đảo này.
Tại Hội nghị San Francisco năm 1951 về việc phân định các vùng lãnh thổ, hải đảo mà Đế quốc Nhật Bản từng chiếm giữ, quần đảo Trường Sa là đối tượng tuyên bố chủ quyền của nhiều bên tranh chấp bao gồm Liên hiệp Pháp, Trung quốc, Đài Loan, Philippines, Malaysia và Indonesia.
Đầu tháng 9 năm 1951, Thủ Tướng Trần Văn Hữu dẫn đầu đoàn Quốc Gia Việt Nam tham gia hội nghị 51 nước có đóng góp trong việc đánh bại Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai tại San Francisco, Mỹ theo lời mời của chính phủ Mỹ. Tại hội nghị, ông bày tỏ quan điểm ủng hộ các nước đồng minh phương tây và yêu cầu Nhật Bản bồi thường chiến phí. Ông cũng nhân hội nghị này khẳng định chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, nguyên văn:
" Việt Nam rất là hứng khởi ký nhận trước nhất cho công cuộc tạo dựng hòa bình này. Và cũng vì vậy cần phải thành thật lợi dụng tất cả mọi cơ hội để dập tắt những mầm mống các tranh chấp sau này, chúng tôi xác nhận chủ quyền đã có từ lâu đời của chúng tôi trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa."
Tuy nhiên , Hội nghị San Francisco 1951 không công nhận chủ quyền của quốc gia nào, quần đảo này được coi là vô chủ và càng gây ra tranh chấp dữ dội hơn sau này.
Tất cả những nước tham gia tranh chấp quần đảo này, trừ Brunei, đều có quân đội cùng vũ khí, khí tài, thiết bị và nhân viên quân sự đồn trú tại nhiều căn cứ trên các đảo nhỏ và đá ngầm khác nhau. Năm 1956, Đài Loan chiếm giữ đảo Ba Bình. Đầu thập niên 1970, Philippines chiếm 7 đảo và các rạn đá thuộc khu vực phía đông quần đảo. Tháng 3 năm 1988, Việt Nam và Trung quốc đụng độ quân sự tại ba rạn đá là Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao. Tháng 2 năm 1995 và tháng 11 năm 1998, giữa Trung quốc và Philippines đã hai lần bùng phát căng thẳng chính trị do hành động giành và củng cố quyền kiểm soát đá Vành Khăn của phía Trung quốc. Dù rằng Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển đã ra đời nhằm xác định các vấn đề về ranh giới trên biển nhưng bản thân Công ước lại không có điều khoản nào quy định cách giải quyết các tranh chấp về chủ quyền đối với các thực thể thuộc quần đảo.
Địa lý tự nhiên
Quần đảo Trường Sa là một tập hợp gồm nhiều đảo san hô, cồn cát, rạn đá (ám tiêu) san hô nói chung (trong đó có rất nhiều rạn san hô vòng, tức rạn vòng hay rạn đá san hô vòng, "đảo" san hô vòng) và bãi ngầm rải rác từ 6°12' đến 12°00' vĩ Bắc và từ 111°30' đến 117°20' kinh Đông, trên một diện tích gần 160.000 km² (nguồn khác: 410.000 km²) ở giữa biển Đông.[Ghi chú 1] Quần đảo này có độ dài từ tây sang đông là 800 km, từ bắc xuống nam là 600 km với độ dài đường bờ biển đạt 926 km. Mỗi tài liệu lại có một con số thống kê riêng về số lượng thực thể địa lý của quần đảo này: hơn 100 đảo và rạn đá ngầm (CIA), 137 "đảo-đá-bãi",khoảng 160 đảo nhỏ-cồn cát-rạn đá ngầm-bãi cát ngầm/bãi cạn-bãi ngầm đã đặt tên (Trung quốc).
Quần đảo Trường Sa Tổng diện tích đất nổi của quần đảo rất nhỏ, không quá 5 Km² (nguồn khác: 11 km² ) do số lượng đảo thực sự rất ít mà chủ yếu là các rạn san hô thường và rạn san hô vòng chìm ngập dưới nước khi thủy triều lên. Các hòn đảo san hô ở Trường Sa tương đối bằng phẳng và thấp, ngay cả khi so sánh với một quần đảo san hô khác gần đó là quần đảo Hoàng Sa. Theo CIA, điểm cao nhất của Trường Sa nằm trên đảo Song Tử Tây với cao độ 4 m so với mực nước biển.
Địa hình và địa chất
Quần đảo Trường Sa là một vỉ lục địa bị nhận chìm vào đầu đại Kainozoi do tách giãn lục địa Đông Nam Á, xoay chuyển và trượt dần về phía tây nam.Thềm lục địa Trường Sa là một dải địa hình tương đối hẹp, kéo dài tự nhiên của các đảo từ độ sâu 0–200 m quanh đảo, sâu từ 60 đến 80 m. Thành phần cấu tạo dải này thường là các mảnh vụn san hô, chủ yếu là hạt thô. Trong khi đó, sườn lục địa Trường Sa là một dải bao quanh thềm lục địa, kéo dài từ mép thềm lục địa đến độ sâu 2.500 m, có nơi lên tới hơn 3.000 m; thành phần cấu tạo chủ yếu là từ đá gốc. Các bãi ngầm có bề mặt sườn là các bề mặt đổ dốc từ độ sâu 170 đến 1.500 m. Sườn của các rạn đá ngầm như đá Tây, Vành Khăn, Phan Vinh có sườn dốc gần như thẳng đứng.
Cả quần đảo bị chia cắt bởi các hệ thống đứt gãy có phương đông bắc - tây nam và tây bắc - đông nam, gồm ba nhóm chính là nhóm đứt gãy đông bắc - tây nam (nổi bật nhất), nhóm đứt gãy tây bắc - đông nam và nhóm đứt gãy hướng kinh tuyến - á vĩ tuyến (lệch so với vĩ tuyến). Ba nhóm này chia quần đảo Trường Sa thành ba cụm đảo có quy mô khác nhau:
Cụm thứ nhất: tập hợp các thực thể ở phía bắc Trường Sa với mật độ phân bố dày và đồng đều, như cặp đảo Song Tử, bãi Đinh Ba, đảo Thị Tứ, Loại Ta, đá Cá Nhám, đảo Ba Bình, Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn và đá Lớn.
Cụm thứ hai: tập hợp các thực thể ở phía đông và đông nam Trường Sa với mật độ phân bố thưa và đều, như đảo Bình Nguyên, Vĩnh Viễn, đá Vành Khăn, bãi Cỏ Mây, bãi Suối Ngà, đá Suối Ngọc, đá Núi Le, Tốc Tan, Phan Vinh, đá Tiên Nữ và đá Công Đo.
Cụm thứ ba: tập hợp các thực thể ở phía nam và tây nam, phân bố rời rạc và rất không đồng đều về mặt kích thước, như đá Lát, đảo Trường Sa, đá Tây, đá Đông, đá Châu Viên, đá Chữ Thập, đảo An Bang, đá Thuyền Chài, đá Kỳ Vân, bãi Kiêu Ngựa và bãi Thám Hiểm.
Lịch sử hình thành các đảo thuộc quần đảo Trường Sa bắt đầu từ cuối thế Pleistocen, đầu thế Holocen, và đa số chúng là phần nhô cao của các rạn vòng. Các rạn vòng nơi đây được đặc trưng bởi dạng kéo dài theo hướng đông bắc-tây nam, trong khi các đảo và mỏm đá ngầm thường nằm trên góc tây bắc, trái ngược với quy luật phân bố đảo trên các rạn vòng khác trên thế giới. Nguyên nhân của các hiện tượng vừa đề cập có thể là vì hướng gió đông bắc - tây nam và hoạt động kiến tạo trong kỉ Đệ tứ. Tại các rạn vòng này, cấu tạo của đảo nổi và hành lang san hô xung quanh đảo có ít sự khác biệt. Hành lang này thường có diện tích gấp từ 4 đến 35 lần so với diện tích đảo.
Trận Hải Chiến Trường Sa (14-3-1988).
Nhân sự kiện này, một nhóm các nhà nghiên cứu, nhóm Trúc Nam Sơn, sẽ công bố cuốn sách mới về Biển Đông, mang tựa đề “Để đảo xa thành đảo gần”.
Cuốn sách có thể xem ở đây: http://www.mediafire.com/view/?tn35bitxfpdwb8j và download ở đây: http://www.mediafire.com/?tn35bitxfpdwb8j hay ở đây:http://www.mediafire.com/?8xs8zib4cbz5bc9
Cuốn sách là kết quả công sức hơn một năm qua của nhóm Trúc Nam Sơn. Dung lượng không quá đồ sộ (hơn 100 trang), nhưng nói về nội dung thì đó là một tài liệu có thể được đánh giá bằng những tính từ như: đầy thông tin,chi tiết.
Dựa vào các dữ liệu trong cuốn “Hàng Hải Chỉ Nam – Biển Đông và Vịnh Thái Lan” do Cục Tình báo Địa Vệ tinh (2011) của quân đội Mỹ, và những bức ảnh chụp qua vệ tinh của Google, nhóm tác giả đã biên soạn nên một “Hồ sơ Tổng hợp” về những đảo, đá, nhóm đảo, bãi ngầm, bãi cạn, cồn, rạn san hô… trên một diện tích bao trùm Biển Đông, đặc biệt là khu vực hai quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa.
Nếu bạn quan tâm đến tranh chấp Biển Đông thì có thể coi đây là một cuốn từ điển địa lý thích hợp cho bạn, vì các dữ liệu liên quan đến từng địa điểm đều được trình bày cụ thể: tên (tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng khác nếu có), hình ảnh trên vệ tinh Google, toạ độ, diện tích hoặc kích thước, mô tả sơ qua về cấu trúc địa lý, bên tranh chấp nào đang kiểm soát. Ví dụ, nếu tra cứu những thông tin liên quan đến địa danh Gạc Ma, bạn sẽ được biết Gạc Ma là một rạn đá (reef) có tên tiếng Anh là Johnson, nằm ở đầu tây nam của cụm Sinh Tồn (Union Atoll). Gạc Ma “là đá núi lửa màu nâu với san hô trắng viền rìa bên trong”, “bao bọc không hoàn toàn một phá cạn có lối vào từ hướng đông bắc”. Tài liệu cũng nêu rõ, mỏm đá lớn nhất trên rạn đá cao 1,2 mét, một số mỏm khác lộ trên mặt nước, phần đông nam của rạn đá; phần còn lại nằm dưới mặt nước. Gạc Ma nằm ở toạ độ 9 độ 42 phút vĩ Bắc và 114 độ 7 phút kinh Đông.
Gạc Ma đã mất vào tay Trung quốc sau cuộc xâm chiếm đẫm máu ngày 14-3-1988. Cũng trong cuộc xâm chiếm đó, quân xâm lược Trung quốc còn tấn công các tàu vận tải và công binh Việt Nam tại đá Cô Lin (Collins Reef) và Len Đao (Landsdowne Reef), nhưng Việt Nam giữ được hai nơi này.
Cô Lin, như được thông tin trong cuốn sách, là “một rạn đá nhỏ với một cồn cát san hô ở phần đông nam”, “nằm cách Gạc Ma 1,5 hải lý về phía tây bắc”, “tách biệt với Gạc Ma bởi một kênh có đáy san hô tương đối sâu”.
Đặc biệt, sách còn cung cấp thông tin về những khu vực nguy hiểm, kèm cảnh báo cho người đi biển; ví dụ, “Có cả một vùng hình chữ nhật diện tích 52.000 hải lý vuông ở mạn đông nam của Biển Đông (và phía tây bắc của hành lang Palawan), gọi là Dangerous Ground (Khu vực Nguy hiểm). Tại đây, chưa có khảo sát hệ thống nào, và rất có thể có những mảng san hô và bãi cát ngầm; chưa kể nhiều đảo ở đây còn là đối tượng để tranh chấp chủ quyền”.
Đúng như cái tên “Để đảo xa thành đảo gần”, với những dữ liệu, hình ảnh vệ tinh và bản đồ, cuốn sách đã mang lại cho độc giả một hình dung tổng quan về Trường Sa, Hoàng Sa, cùng hàng chục địa danh liên quan trên Biển Đông. Sách cũng còn nhiều chỗ có thể khó hiểu với quảng đại độc giả. Điều này là do bản thân vấn đề biển đảo, địa lý, hàng hải, đã khá phức tạp, với nhiều thuật ngữ chuyên môn chưa bao giờ được Việt hoá một cách thống nhất, ví dụ như khái niệm tương ứng trong tiếng Việt của isle, island, rock… Tuy nhiên dù sao, đây vẫn là một tài liệu thích hợp cho việc tra cứu, tham khảo.
Nhóm tác giả gồm một số nhà nghiên cứu trẻ, biên soạn cuốn sách với mục đích góp phần giúp độc giả thêm hiểu, thêm yêu Biển Đông, cũng là để đóng góp một sản phẩm khoa học vào ngày tưởng niệm 14-3-1988 sự kiện Trung quốc đánh chiếm Gạc Ma.
Một thành viên của nhóm cho biết, tên “Trúc Nam Sơn” được lấy cảm hứng từ một câu trong “Bình Ngô Đại Cáo” của nhà quân sự, tư tưởng Nguyễn Trãi:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi…”
các thông tin có liên quan có thể tra cứu thêm tại địa chỉ này :
http://vi.wikipedia.org/wiki/Danh_s%C3%A1ch_th%E1%BB%B1c_th%E1%BB%83_b%E1%BB%8B_chi%E1%BA%BFm_%C4%91%C3%B3ng_%E1%BB%9F_qu%E1%BA%A7n_%C4%91%E1%BA%A3o_Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng_Sa
Ở cấp độ quốc tế, phạm vi của khái niệm Spratly Islands vẫn chưa được xác định rõ và đang trong vòng tranh cãi. Ở cấp độ quốc gia cũng có các cách hiểu khác nhau. Tuy Đài Loan, Trung quốc và Việt Nam trên danh nghĩa đều tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo, nhưng khái niệm quần đảo Nam Sa trong nhận thức của Đài Loan và Trung quốc là bao hàm toàn bộ các thực thể địa lý nằm bên trong phần phía nam của đường chín đoạn. Đối với Philippines, phạm vi tuyên bố chủ quyền của nước này bao trùm hầu hết quần đảo và được gọi là Nhóm đảo Kalayaan. Về phần Malaysia, nước này đòi hỏi một số thực thể ở phía nam của quần đảo. Cuối cùng, với Brunei, hiện chưa rõ nước này đòi hỏi cụ thể thực thể địa lý nào vì Brunei mới chỉ đưa ra yêu sách về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa mà trong vùng đó có vài thực thể thuộc vào quần đảo này.
Tại Hội nghị San Francisco năm 1951 về việc phân định các vùng lãnh thổ, hải đảo mà Đế quốc Nhật Bản từng chiếm giữ, quần đảo Trường Sa là đối tượng tuyên bố chủ quyền của nhiều bên tranh chấp bao gồm Liên hiệp Pháp, Trung quốc, Đài Loan, Philippines, Malaysia và Indonesia.
Đầu tháng 9 năm 1951, Thủ Tướng Trần Văn Hữu dẫn đầu đoàn Quốc Gia Việt Nam tham gia hội nghị 51 nước có đóng góp trong việc đánh bại Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai tại San Francisco, Mỹ theo lời mời của chính phủ Mỹ. Tại hội nghị, ông bày tỏ quan điểm ủng hộ các nước đồng minh phương tây và yêu cầu Nhật Bản bồi thường chiến phí. Ông cũng nhân hội nghị này khẳng định chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, nguyên văn:
" Việt Nam rất là hứng khởi ký nhận trước nhất cho công cuộc tạo dựng hòa bình này. Và cũng vì vậy cần phải thành thật lợi dụng tất cả mọi cơ hội để dập tắt những mầm mống các tranh chấp sau này, chúng tôi xác nhận chủ quyền đã có từ lâu đời của chúng tôi trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa."
Tuy nhiên , Hội nghị San Francisco 1951 không công nhận chủ quyền của quốc gia nào, quần đảo này được coi là vô chủ và càng gây ra tranh chấp dữ dội hơn sau này.
Tất cả những nước tham gia tranh chấp quần đảo này, trừ Brunei, đều có quân đội cùng vũ khí, khí tài, thiết bị và nhân viên quân sự đồn trú tại nhiều căn cứ trên các đảo nhỏ và đá ngầm khác nhau. Năm 1956, Đài Loan chiếm giữ đảo Ba Bình. Đầu thập niên 1970, Philippines chiếm 7 đảo và các rạn đá thuộc khu vực phía đông quần đảo. Tháng 3 năm 1988, Việt Nam và Trung quốc đụng độ quân sự tại ba rạn đá là Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao. Tháng 2 năm 1995 và tháng 11 năm 1998, giữa Trung quốc và Philippines đã hai lần bùng phát căng thẳng chính trị do hành động giành và củng cố quyền kiểm soát đá Vành Khăn của phía Trung quốc. Dù rằng Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển đã ra đời nhằm xác định các vấn đề về ranh giới trên biển nhưng bản thân Công ước lại không có điều khoản nào quy định cách giải quyết các tranh chấp về chủ quyền đối với các thực thể thuộc quần đảo.
Địa lý tự nhiên
Quần đảo Trường Sa là một tập hợp gồm nhiều đảo san hô, cồn cát, rạn đá (ám tiêu) san hô nói chung (trong đó có rất nhiều rạn san hô vòng, tức rạn vòng hay rạn đá san hô vòng, "đảo" san hô vòng) và bãi ngầm rải rác từ 6°12' đến 12°00' vĩ Bắc và từ 111°30' đến 117°20' kinh Đông, trên một diện tích gần 160.000 km² (nguồn khác: 410.000 km²) ở giữa biển Đông.[Ghi chú 1] Quần đảo này có độ dài từ tây sang đông là 800 km, từ bắc xuống nam là 600 km với độ dài đường bờ biển đạt 926 km. Mỗi tài liệu lại có một con số thống kê riêng về số lượng thực thể địa lý của quần đảo này: hơn 100 đảo và rạn đá ngầm (CIA), 137 "đảo-đá-bãi",khoảng 160 đảo nhỏ-cồn cát-rạn đá ngầm-bãi cát ngầm/bãi cạn-bãi ngầm đã đặt tên (Trung quốc).
Quần đảo Trường Sa Tổng diện tích đất nổi của quần đảo rất nhỏ, không quá 5 Km² (nguồn khác: 11 km² ) do số lượng đảo thực sự rất ít mà chủ yếu là các rạn san hô thường và rạn san hô vòng chìm ngập dưới nước khi thủy triều lên. Các hòn đảo san hô ở Trường Sa tương đối bằng phẳng và thấp, ngay cả khi so sánh với một quần đảo san hô khác gần đó là quần đảo Hoàng Sa. Theo CIA, điểm cao nhất của Trường Sa nằm trên đảo Song Tử Tây với cao độ 4 m so với mực nước biển.
Địa hình và địa chất
Quần đảo Trường Sa là một vỉ lục địa bị nhận chìm vào đầu đại Kainozoi do tách giãn lục địa Đông Nam Á, xoay chuyển và trượt dần về phía tây nam.Thềm lục địa Trường Sa là một dải địa hình tương đối hẹp, kéo dài tự nhiên của các đảo từ độ sâu 0–200 m quanh đảo, sâu từ 60 đến 80 m. Thành phần cấu tạo dải này thường là các mảnh vụn san hô, chủ yếu là hạt thô. Trong khi đó, sườn lục địa Trường Sa là một dải bao quanh thềm lục địa, kéo dài từ mép thềm lục địa đến độ sâu 2.500 m, có nơi lên tới hơn 3.000 m; thành phần cấu tạo chủ yếu là từ đá gốc. Các bãi ngầm có bề mặt sườn là các bề mặt đổ dốc từ độ sâu 170 đến 1.500 m. Sườn của các rạn đá ngầm như đá Tây, Vành Khăn, Phan Vinh có sườn dốc gần như thẳng đứng.
Cả quần đảo bị chia cắt bởi các hệ thống đứt gãy có phương đông bắc - tây nam và tây bắc - đông nam, gồm ba nhóm chính là nhóm đứt gãy đông bắc - tây nam (nổi bật nhất), nhóm đứt gãy tây bắc - đông nam và nhóm đứt gãy hướng kinh tuyến - á vĩ tuyến (lệch so với vĩ tuyến). Ba nhóm này chia quần đảo Trường Sa thành ba cụm đảo có quy mô khác nhau:
Cụm thứ nhất: tập hợp các thực thể ở phía bắc Trường Sa với mật độ phân bố dày và đồng đều, như cặp đảo Song Tử, bãi Đinh Ba, đảo Thị Tứ, Loại Ta, đá Cá Nhám, đảo Ba Bình, Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn và đá Lớn.
Cụm thứ hai: tập hợp các thực thể ở phía đông và đông nam Trường Sa với mật độ phân bố thưa và đều, như đảo Bình Nguyên, Vĩnh Viễn, đá Vành Khăn, bãi Cỏ Mây, bãi Suối Ngà, đá Suối Ngọc, đá Núi Le, Tốc Tan, Phan Vinh, đá Tiên Nữ và đá Công Đo.
Cụm thứ ba: tập hợp các thực thể ở phía nam và tây nam, phân bố rời rạc và rất không đồng đều về mặt kích thước, như đá Lát, đảo Trường Sa, đá Tây, đá Đông, đá Châu Viên, đá Chữ Thập, đảo An Bang, đá Thuyền Chài, đá Kỳ Vân, bãi Kiêu Ngựa và bãi Thám Hiểm.
Lịch sử hình thành các đảo thuộc quần đảo Trường Sa bắt đầu từ cuối thế Pleistocen, đầu thế Holocen, và đa số chúng là phần nhô cao của các rạn vòng. Các rạn vòng nơi đây được đặc trưng bởi dạng kéo dài theo hướng đông bắc-tây nam, trong khi các đảo và mỏm đá ngầm thường nằm trên góc tây bắc, trái ngược với quy luật phân bố đảo trên các rạn vòng khác trên thế giới. Nguyên nhân của các hiện tượng vừa đề cập có thể là vì hướng gió đông bắc - tây nam và hoạt động kiến tạo trong kỉ Đệ tứ. Tại các rạn vòng này, cấu tạo của đảo nổi và hành lang san hô xung quanh đảo có ít sự khác biệt. Hành lang này thường có diện tích gấp từ 4 đến 35 lần so với diện tích đảo.
Trận Hải Chiến Trường Sa (14-3-1988).
Nhân sự kiện này, một nhóm các nhà nghiên cứu, nhóm Trúc Nam Sơn, sẽ công bố cuốn sách mới về Biển Đông, mang tựa đề “Để đảo xa thành đảo gần”.
Cuốn sách có thể xem ở đây: http://www.mediafire.com/view/?tn35bitxfpdwb8j và download ở đây: http://www.mediafire.com/?tn35bitxfpdwb8j hay ở đây:http://www.mediafire.com/?8xs8zib4cbz5bc9
Cuốn sách là kết quả công sức hơn một năm qua của nhóm Trúc Nam Sơn. Dung lượng không quá đồ sộ (hơn 100 trang), nhưng nói về nội dung thì đó là một tài liệu có thể được đánh giá bằng những tính từ như: đầy thông tin,chi tiết.
Dựa vào các dữ liệu trong cuốn “Hàng Hải Chỉ Nam – Biển Đông và Vịnh Thái Lan” do Cục Tình báo Địa Vệ tinh (2011) của quân đội Mỹ, và những bức ảnh chụp qua vệ tinh của Google, nhóm tác giả đã biên soạn nên một “Hồ sơ Tổng hợp” về những đảo, đá, nhóm đảo, bãi ngầm, bãi cạn, cồn, rạn san hô… trên một diện tích bao trùm Biển Đông, đặc biệt là khu vực hai quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa.
Nếu bạn quan tâm đến tranh chấp Biển Đông thì có thể coi đây là một cuốn từ điển địa lý thích hợp cho bạn, vì các dữ liệu liên quan đến từng địa điểm đều được trình bày cụ thể: tên (tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng khác nếu có), hình ảnh trên vệ tinh Google, toạ độ, diện tích hoặc kích thước, mô tả sơ qua về cấu trúc địa lý, bên tranh chấp nào đang kiểm soát. Ví dụ, nếu tra cứu những thông tin liên quan đến địa danh Gạc Ma, bạn sẽ được biết Gạc Ma là một rạn đá (reef) có tên tiếng Anh là Johnson, nằm ở đầu tây nam của cụm Sinh Tồn (Union Atoll). Gạc Ma “là đá núi lửa màu nâu với san hô trắng viền rìa bên trong”, “bao bọc không hoàn toàn một phá cạn có lối vào từ hướng đông bắc”. Tài liệu cũng nêu rõ, mỏm đá lớn nhất trên rạn đá cao 1,2 mét, một số mỏm khác lộ trên mặt nước, phần đông nam của rạn đá; phần còn lại nằm dưới mặt nước. Gạc Ma nằm ở toạ độ 9 độ 42 phút vĩ Bắc và 114 độ 7 phút kinh Đông.
Gạc Ma đã mất vào tay Trung quốc sau cuộc xâm chiếm đẫm máu ngày 14-3-1988. Cũng trong cuộc xâm chiếm đó, quân xâm lược Trung quốc còn tấn công các tàu vận tải và công binh Việt Nam tại đá Cô Lin (Collins Reef) và Len Đao (Landsdowne Reef), nhưng Việt Nam giữ được hai nơi này.
Cô Lin, như được thông tin trong cuốn sách, là “một rạn đá nhỏ với một cồn cát san hô ở phần đông nam”, “nằm cách Gạc Ma 1,5 hải lý về phía tây bắc”, “tách biệt với Gạc Ma bởi một kênh có đáy san hô tương đối sâu”.
Đặc biệt, sách còn cung cấp thông tin về những khu vực nguy hiểm, kèm cảnh báo cho người đi biển; ví dụ, “Có cả một vùng hình chữ nhật diện tích 52.000 hải lý vuông ở mạn đông nam của Biển Đông (và phía tây bắc của hành lang Palawan), gọi là Dangerous Ground (Khu vực Nguy hiểm). Tại đây, chưa có khảo sát hệ thống nào, và rất có thể có những mảng san hô và bãi cát ngầm; chưa kể nhiều đảo ở đây còn là đối tượng để tranh chấp chủ quyền”.
Đúng như cái tên “Để đảo xa thành đảo gần”, với những dữ liệu, hình ảnh vệ tinh và bản đồ, cuốn sách đã mang lại cho độc giả một hình dung tổng quan về Trường Sa, Hoàng Sa, cùng hàng chục địa danh liên quan trên Biển Đông. Sách cũng còn nhiều chỗ có thể khó hiểu với quảng đại độc giả. Điều này là do bản thân vấn đề biển đảo, địa lý, hàng hải, đã khá phức tạp, với nhiều thuật ngữ chuyên môn chưa bao giờ được Việt hoá một cách thống nhất, ví dụ như khái niệm tương ứng trong tiếng Việt của isle, island, rock… Tuy nhiên dù sao, đây vẫn là một tài liệu thích hợp cho việc tra cứu, tham khảo.
Nhóm tác giả gồm một số nhà nghiên cứu trẻ, biên soạn cuốn sách với mục đích góp phần giúp độc giả thêm hiểu, thêm yêu Biển Đông, cũng là để đóng góp một sản phẩm khoa học vào ngày tưởng niệm 14-3-1988 sự kiện Trung quốc đánh chiếm Gạc Ma.
Một thành viên của nhóm cho biết, tên “Trúc Nam Sơn” được lấy cảm hứng từ một câu trong “Bình Ngô Đại Cáo” của nhà quân sự, tư tưởng Nguyễn Trãi:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi…”
các thông tin có liên quan có thể tra cứu thêm tại địa chỉ này :
http://vi.wikipedia.org/wiki/Danh_s%C3%A1ch_th%E1%BB%B1c_th%E1%BB%83_b%E1%BB%8B_chi%E1%BA%BFm_%C4%91%C3%B3ng_%E1%BB%9F_qu%E1%BA%A7n_%C4%91%E1%BA%A3o_Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng_Sa
Gửi ý kiến của bạn