VIỆT NAM QUÊ HƯƠNG THƯƠNG NHỚ ! XỨ MÔ XOÀI - ĐẤT BÀ RỊA (PHƯỚC TUY) : GHI DẤU CHÂN NAM TIẾN & THÍCH CA PHẬT ĐÀI ( VŨNG TÀU ).

30 Tháng Năm 20229:23 CH(Xem: 1580)
XỨ MÔ XOÀI - ĐẤT BÀ RỊA - TỈNH PHƯỚC TUY .
Xứ Mô Xoài – vùng đất đầu tiên người Việt khai phá ở Nam Phần .
Bây giờ, người dân Bà Rịa – Vũng Tàu chỉ biết có sông Xoài - một khúc ngọn của Sông Dinh. Người ta cũng biết đến đồng Xoài, một cánh đồng thuộc xã Hoà Long, nằm ven sông Xoài. Người dân, không ai nhắc đến xứ Mô Xoài. Bản đồ hành chính hay bản đồ địa chính của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cũng không có dấu tích gì về xứ Mô Xoài. Tìm về xứ Mô Xoài, chỉ còn cách đọc lại những cuốn sách xưa.
Hưng Phúc – Hương Phước là xứ Mô Xoài
Xứ Mô Xoài - Bà Rịa có vị trí quan trọng trong công cuộc khai phá vùng đất phương Nam của lưu dân người Việt. Đây là nơi mở đầu cho cuộc khẩn hoang, là nơi định cư, lập nghiệp đầu tiên của người Việt, là bàn đạp để mở mang toàn cõi Nam Phần . Sách Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức viết vào những năm 20 của thế kỷ 19 đã định danh: “Bà Rịa là ở đầu biên giới trấn Biên Hòa, là đất có danh tiếng, cho nên các phủ ở phía bắc có câu ngạn rằng: “cơm Nai - Rịa, cá Rí - Rang” là lấy xứ Đồng Nai và Bà Rịa đứng đầu mà bao gồm cả Bến Nghé, Sài Gòn, Mỹ Tho, Long Hồ cũng ở vào trong đó”. Đất này dựa lưng vào núi, quay mặt ra biển, rừng rậm tre cao, trên có tuần trường để chiêu dụ bọn man - mạch đến đổi chác, dưới có quan - tấn để xem xét ghe thuyền lúc đi ra biển. Đường trạm thủy lục giao thông, thổ sản núi rừng cung cấp. Chế ngự Đê - Man phòng ngừa đạo tặc, có huyện, nha đạo thủ chia giữ nhiệm vụ, vẫn là địa hạt xung yếu thứ nhất. Vả lại có nhiều quan ải hiểm yếu, có thành trì dấu xưa còn lại, khác gì quốc đô của các vương giả ngày xưa” .
Cho ðến khi Gia Long lên ngôi (1802), lập Thành Gia Định gồm 5 trấn thì Bà Rịa - Đồng Nai là tên gọi chung của một vùng ðất: Trấn Biên Hoà. Trịnh Hoài Đức viết: “Đất Gia Định có 5 trấn khác nhau: Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh, Định Tường và Hà Tiên. Ở trong trấn ấy xứ sở danh mục vẫn cũng nhiều, mà thổ nhân thường nói thì chỉ gọi đất Biên Hòa là Đồng Nai, Bà Rịa, gọi đất Phiên An là Bến Nghé, Sài Gòn, gọi đất Định Tường là Vũng Gù, Mỹ Tho, gọi đất Vĩnh Thanh là Long Hồ, Sa Đéc, gọi đất Hà Tiên là Cà Mau, Rạch Giá. Ấy là lấy tên chỗ lỵ sở hoặc chỗ nhóm họp đông lớn, hoặc chỗ địa đầu, nói tổng quát đại khái mà không phải thuật kỹ những chỗ nhỏ mọn linh tinh .
Đất có danh tiếng là khi đã được định danh. Sử sách xưa thường ghi xứ Mô Xoài là nơi khởi đầu lập nghiệp của người Việt ở vùng đất Nam bộ. Nguyễn Cư Trinh từng nhắc đến vùng đất này trong một lời tâu được chép trong Đại Nam Thực lục: “Bính Tý, năm thứ 18 (1756), lập phủ Lương Quán. Nặc Nguyên nước Chân Lạp trình bày rằng việc đánh cướp Côn Man là do tướng Chiêu Chuỳ Ếch gây ra, nay xin hiến đất hai phủ Tầm Bôn, Lôi Lạp và nộp bù lễ cống còn thiếu về ba năm trước để chuộc tội. Mạc Thiên Tứ đem việc tâu lên, Chúa cùng các quan bàn, ra lệnh bắt Chiêu Chuỳ Ếch đem nộp. Nặc Nguyên trả lời rằng, Ếch đã bị xử tử rồi. Khiến bắt vợ con. Nguyên lại kiếm cớ xin tha. Chúa biết là nói dối, không y lời xin. Nguyễn Cư Trinh kíp tâu rằng: “Từ xưa việc dụng binh chẳng qua là để diệt trừ bọn đầu sỏ và mở mang thêm đất đai. Nặc Nguyên nay đã biết ăn năn xin hàng nộp đất, nếu truy mãi lời nói dối ấy thì nó tất chạy trốn. Nhưng từ đồn dinh Gia Định đến La Bích, đường xá xa xôi, nghìn rừng muôn suối, không tiện đuổi đến cùng. Muốn mở mang đất đai cũng phải lấy hai phủ này trước để củng cố mặt sau của hai dinh. Nếu bỏ gần cầu xa e rằng hình thế cách trở binh dân không liên tiếp, lấy được tuy dễ, mà giữ thực là khó. Khi xưa mở mang phủ Gia Định, tất phải trước mở đất Hưng Phúc, rồi đến đất Đồng Nai, khiến cho quan dân đông đủ, rồi sau mới tới Sài Gòn. Đó là cái kế tằm ăn dần .
Những đoạn in đậm trên đây là do người viết nhấn mạnh. “Đất Hưng Phúc” được nhắc đến ở trên còn được gọi là Hương Phước, chính là xứ Mô Xoài mà chúng tôi sẽ đề cập dưới đây.
Hương Phước là tên một con sông – sông Xoài – sông Mô Xoài, là tên một vùng đất, sau chia thành hai làng mang tên Long Hương - Phước Lễ, những ngôi làng đầu tiên mà người Việt đến lập nghiệp ở vùng đất này. Hai ngôi làng nằm dưới chân núi. Núi ấy mang tên núi Mô Xoài. Hai làng nằm hai bên con sông. Sông mang tên sông Mô Xoài.
Núi Dinh là núi Mô Xoài – sông Dinh là sông Mô Xoài .
Núi Mô Xoài, nay gọi là Núi Dinh, thuộc địa phận thị xã Bà Rịa. Từ thế kỷ 19 trở về trước, tên núi vẫn được gọi theo tên của vùng đất này là núi Mỗi Xuy, Mỏ Xoài, Mô Xoài, có khi gọi là núi Trấn Biên, hoặc Tấn Biên. Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức viết: “Núi Trấn Biên: Tục danh núi Mũi Xuy (hay Mỏ Xoài) cách phía Đông trấn 154 dặm. Hình núi cao ngất xanh om, có những hang Nai, đồi Thông, mây phủ suối reo, cảnh trí u tịch, chầu về Gia Định, hình dung thanh tú, bài liệt thênh thang. Lưng chừng núi lại có động đá thâm u khuất khúc chất hẹp, đi vào không cùng tận. Có thầy tăng tịch cốc tên là Ngộ Chân, cất chùa Đức Vân nơi cửa động để trụ trì, hàng ngày chỉ ăn rau quả niệm Phật, luyện tập được cả hùm beo; lại hay vẽ bùa chữa bệnh, thâu được lễ tạ thì đem tản cấp cho những người nghèo đói khốn khổ, cũng là một vị cao tăng đắc đạo vậy”.
Con sông lượn quanh chân ngọn núi này gọi là sông Mô Xoài (theo tên núi), cũng được gọi là sông Hương Phước (theo tên làng). Sách Gia Định thành thông chí viết: “Sông Hương Phước: (Tức là sông Xoài, là nơi thôn Phước Long và thôn Hương Lễ hiệp nhau đài thọ lính trạm). Ngược dòng lên phía bắc tục danh sông Xoài, chuyển quanh lên phía tây đến suối Châu - Thù - Thì dốc Giao - Kèo, qua suối Thâm - Tuyền đến cùng nguyên sông Uông - Giang dài 15 dặm, 1 chi chảy qua nam độ 4 dặm làm cửa sông lớn Hương Phước rồi hiệp lưu cùng các sông” .
Sách Đại Nam nhất thống chí chú dẫn rõ hơn: “Sông Hương Phước tức là sông Mỗi Xoài là chỗ dân hai thôn Long Hương và Phước Lễ chung nhau chịu lính trạm” .
Sông Mô Xoài nay gọi là sông Dinh, chảy qua địa phận thị xã Bà Rịa (làng Phước Lễ xưa). Tên gọi mới của dòng sông và ngọn núi liên quan đến công cuộc cải cách hành chính trong nhiều thế kỷ tiếp đó. Năm 1698, khi Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược đất Chân Lạp, lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long thì hai làng Long Hương và Phước Lễ thuộc tổng Phước An, một trong bốn tổng của huyện Phước Long (Phước An, Long Thành, Bình An và Phước Chánh). Năm 1808, huyện Phước Long đổi thành trấn Biên Hòa, cải bốn tổng thành bốn huyện. Huyện Phước An có hai tổng An Phú và Phước Hưng. Hai làng Long Hương và Phước Lễ thuộc tổng An Phú, huyện lỵ đặt tại thôn Long Điền. Năm 1836, hai tổng An Phú và Phước Hưng tách thành 4 tổng là An Phú Thượng, An Phú Hạ, Phước Hưng Thượng và Phước Hưng Hạ, hai làng Long Hương và Phước Lễ thuộc tổng An Phú Hạ. Năm 1837, đặt phủ Phước Tuy (gồm huyện Phước An, Long Thành và Long Khánh), phủ lỵ đặt tại thôn Phước Lễ. Đây là thời điểm khởi đầu quá trình đô thị hoá ngôi làng này. Phước Lễ trở thành trung tâm hành chính, kinh tế, văn hoá, quân sự của phủ Phước Tuy, dân cư, chợ búa ngày càng đông đúc. Phước Lễ có Dinh Phủ, và từ “Dinh” trở nên quen thuộc đối với người dân trong vùng. Đầu tiên, người dân quen gọi chợ Phước Lễ là Chợ Dinh. Dân tứ xứ đến chợ Dinh bằng ghe, xuồng. Bến sông, dòng sông cũng bắt đầu bằng cách gọi mới: Sông Dinh. Dần dà, cả ngọn núi cũng được gọi theo cách mới là Núi Dinh. Lâu ngày thành quen, cái tên Mô Xoài bị lãng quên, chỉ còn lại trong những trang sách cổ. Khi thực dân Pháp chiếm đóng vùng đất này, lập bản đồ thì cái tên Núi Dinh, Sông Dinh chính thức đi vào những trang sách mới.
Thành Hưng Phúc (Hương Phước) là thành mô Xoài:
Quốc sử triều Nguyễn chép: “Mậu Tuất năm thứ 10 [1658], tháng 9, vua nước Chân Lạp, vốn tên Cao Mên là Nặc Ông Chân xâm lấn biên thuỳ, Dinh Trấn Biên báo lên, Chúa sai phó tướng Dinh Trấn biên là Tôn Thất Yến, Cai đội là Xuân Thắng, Tham mưu là Minh Lộc (hai người đều không rõ họ) đem 3000 quân đến thành Hưng Phúc (bấy giờ gọi là Mỗi Xuy, nay thuộc huyện Phúc Chính, tỉnh Biên Hoà) đánh phá được, bắt được Nặc Ông Chân đưa về, chúa tha tội cho và sai hộ tống về nước, khiến làm phiên thần, hàng năm cống nộp” .
Thành Hưng Phúc được nhắc đến trong đoạn trích trên cũng chính là thành Hương Phước – lũy Mô Xoài mà Trịnh Hoài Đức đã đề cập về Luỹ Phước Tứ. Sự kiện này được Trịnh Hoài Đức mô tả kỹ hơn khi viết về Cương vực (tập Trung, Quyển III): “Gia Định xưa nguyên là đất của Chân Lạp (nay là nước Cao Miên, có biệt danh Thủy Chân Lạp và Lục Chân Lạp), đất ruộng phì nhiêu, có địa lợi sông, biển, cá muối và lúa, đậu rất nhiều. Các tiên hoàng đế triều ta chưa rảnh để mưu tính việc xa nên tạm để đất này cho Cao Miên ở, nối đời làm Phiên thuộc ở miền nam, triều cống luôn luôn. Đến đời vua Thái Tông Hiếu Triết hoàng đế năm thứ 11 Mậu Tuất (1658), tháng 9 (tức Lê Thần Tông niên hiệu Vĩnh Thọ nguyên niên, Thanh Thuận trị năm thứ 14) vua nước Cao Miên là Nặc Ong Chân xâm phạm biên cảnh (Ghi chú: Người Cao Miên không có họ, con cháu nhà vua đều xưng là Nặc Ong, Chăn là tên người, mà mạng danh thì lấy chữ tốt đẹp, tuy ông cháu cùng tên mà không kiêng cữ. Nước ta có gửi văn thư cho nước ấy thì xưng là Cao Miên Quốc vương Nặc Ong (Mỗ), là lấy tên của vị con vua nước ấy mới được phong mà gọi. Còn như vương tước nước ấy tự xưng thì có 11, 12 chữ đến 23, 24 chữ tùy ư dùng chữ tốt đẹp chứ không định lệ). Khâm mạng dinh Trấn Biên (Ghi chú: khi đầu khai thác, phàm những chỗ đầu biên giới gọi tên là Trấn Biên, xét Trấn Biên đây tức là trấn Phú Yên ngày nay), Phó tướng Yến Vũ hầu, Tham mưu Minh Lộc hầu và Tiên phong Cai đội Xuân Thắng hầu đem 3 ngàn binh đi trong 2 tuần đến thành Mỗi Xuy (hay Mô Xoài) nước Cao Miên, đánh phá kinh thành và bắt được vua nước ấy là Nặc Ong Chân giải về hành tại dinh Quảng Bình. Vua dụ cho tha tội, rồi phong Nặc Ong Chân làm Cao Miên quốc vương, cho được giữ đạo phiên thần, lo bề cống hiến, không được xâm nhiễu dân sự ở ngoài biên cương, rồi khiến quan binh hộ tống về nước. Khi ấy địa đầu Gia Định là Mỗi Xuy (hay Mô Xoài) và Đồng Nai (tức nay là Biên Hòa trấn) ấy đã có lưu dân của nước ta đến ở chung lộn với dân Cao Miên khai khẩn ruộng đất. Người Cao Miên rất khâm phục oai đức của triều đình, đem nhượng hết cả đất ấy rồi tránh ở chỗ khác, không dám tranh trở chuyện gì” .
Mô Xoài là tên xưa của vùng đất Bà Rịa, là địa đầu của cả xứ Đồng Nai, là vùng đất mà lớp người Việt đầu tiên đặt chân vào khai phá.
Mô Xoài, Mỗi Xoài, Mỗi Xuy (có sách chép là Mũi Xôi) là tên một ngọn núi, cũng gọi là núi Trấn Biên (có sách chép là Tấn Biên), nay gọi là Núi Dinh, nằm trên địa phận thị xã Bà Rịa hiện nay.
Mô Xoài là tên một con sông, còn gọi là sông Hương Phước (có sách chép là Hưng Phúc), nay mang tên Sông Dinh, chảy qua địa phận thị xã Bà Rịa. Hương Phước (Hưng Phúc) là tên ngôi làng người Việt (Long Hương - Phước Lễ) đầu tiên ở vùng đất Mô Xoài.
Mô Xoài là tên của một vùng đất mà lớp người Việt đầu tiên vào Nam bộ khai khẩn. Vùng đất ấy sau được gọi là xứ Mô Xoài. Đó là một vùng đất bao gồm nhiều làng thuộc tổng An Phú (An Phú Hạ) xưa, những ngôi làng người Việt đầu tiên được thành lập trên vùng đất Nam bộ.
DẤU TÍCH CÒN LẠI CỦA LUỸ MÔ XOÀI .
Mô Xoài là tên vùng đất đầu tiên người Việt đến lập nghiệp ở Nam bộ. Mô Xoài là tên núi, ngọn núi bây giờ mang tên Núi Dinh, là tên sông, dòng sông bây giờ mang tên Sông Dinh. Mô Xoài là tên vùng đất, bao gồm các làng Long Hương, Phước Lễ và Hoà Long thuộc thị xã Bà Rịa bây giờ. Mô Xoài là tên thành (luỹ), luỹ Mô Xoài, còn gọi là luỹ Bô Tâm, luỹ Phước Tứ, trên địa phận Bàu Thành (thị trấn Long Điền bây giờ). Bàu Thành – lũy Mô Xoài - di tích xưa nhất của người Việt ở Nam Phần .
Sử sách cũ không mô tả chi tiết, chỉ biết những thông tin quan trọng về lũy Mô Xoài qua các đoạn trích dẫn trên như sau:
- Mậu Tuất năm thứ 10 (1658), tháng 9, vua nước Chân Lạp, vốn tên Cao Mên là Nặc Ông Chân xâm lấn biên thuỳ,… Chúa sai phó tướng Dinh Trấn biên là Tôn Thất Yến, Cai đội là Xuân Thắng, Tham mưu là Minh Lộc đem 3000 quân đến thành Hưng Phúc (bấy giờ gọi là Mỗi Xuy),… đánh phá được, bắt được Nặc Ông Chân đưa về .
- Khi ấy địa đầu Gia Định là Mỗi Xuy (hay Mô Xoài) và Đồng Nai (tức nay là Biên Hòa trấn) ấy đã có lưu dân của nước ta đến ở chung lộn với dân Cao Miên khai khẩn ruộng đất. Người Cao Miên rất khâm phục oai đức của triều đình, đem nhượng hết cả đất ấy rồi tránh ở chỗ khác, không dám tranh trở chuyện gì” .
- Lũy Phước Tứ: Ở phía đông trạm Hương Phước, ngang giữa quan lộ. Trước đây chánh Vương Cao Miên là Sô ngự trị ở thành Vũng Long, Phó vương là Nộn ngự trị ở thành Sài Gòn. Con trưởng của Sô là Bô Tâm không được làm vua, bèn giết cha mà tự lập, rồi sợ Nộn không phục, báo cáo lên triều để đem binh hỏi tội, bèn đắp đồn đất ở Khu Bích Nam Vang, kết bè nổi giăng dây sắt để tự vệ, lại cầu Tiêm La ứng viện, mưu đánh giết Nộn. Thế Nộn lúc bây giờ bị nguy bức phải chạy qua nương tựa dinh Thái Khang, Bô Tâm bèn chiếm cứ Sài Gòn, mà binh Tiêm không đến, Bô Tâm đắp lũy đất ở địa đầu Mô Xoài, ngoài trồng tre gai, đem binh tượng phòng thủ rất chặt chẽ. Trải hơn một năm thấy binh ta không hề động tĩnh, Bô Tâm trễ nải không phòng bị, binh sĩ tứ tán ra ngoài ruộng nương. Tháng Giêng năm Giáp Dần (1674) đời vua Thái Tôn thứ 27, Trấn thủ dinh Thái Khang là Nguyễn Triều Đắc đem việc đề đạt lên, tháng 2 vua sai Chủ tướng dinh Thái Khang là Nguyễn Dương xuất chinh, giao cho Nguyễn Diên làm Cai cơ thống lãnh binh tiên phong, phải đi rất mau chóng cả ngày thâu đêm. Tháng 3 Diên Lộc hầu đến trước tại lũy Mô Xoài, nhân chúng không phòng bị xông vào đánh úp, binh sĩ không ai bị sát hại cả; cách 3 ngày bọn chúng nhóm lại vây đánh rất gắt, Diên Lộc hầu đóng cửa lũy không ra ứng chiến, đợi binh Dương Lâm hầu đến bèn hiệp lực ra đánh, binh Cao Miên tan rã, bị tử thương rất đông. Nhân vậy mới gọi tên là lũy “Phước Tứ” .
- Lũy ấy trải mấy đời sau cũng nhân theo đó nhận làm yếu địa đồn trú cho đạo Mô Xoài, nay giặc giã yên lặng, tứ bề không còn đồn lũy, tuy thành tường đào phá làm ruộng vườn, mà bờ tre còn xanh tốt, còn nhìn nhận được dấu tích lũy xưa” .
- DỤC TƯỢNG TRÌ (AO TẮM VOI): Tục gọi là Bàu Thành, ở phía bắc lũy Phước Tứ, tổng Phước Hưng, huyện Phước An. Khi xưa là chỗ đồn binh của người Cao Miên Bô Tâm tắm voi, chung quanh đắp đê bằng đất, nay dấu cũ vẫn còn” .
Tóm tắt các diễn biến trên về lũy Mô Xoài và Bàu Thành như sau: Bàu Thành là tên một cái bàu (bưng – bàu), nằm ở phía bắc lũy Phước Tứ, (lũy Mô Xoài, lũy Hưng Phúc, lũy Hương Phước, lũy Bô Tâm). Lũy Mô Xoài (lũy Phước Tứ, lũy Hưng Phúc, lũy Hương Phước, lũy Bô Tâm) lúc đầu do người Cao Mên tên là Bô Tâm xâm phạm biên cảnh (xứ Mô Xoài), đắp lũy bằng đất, bên ngoài trồng tre gai, bên trong có đội tượng binh canh giữ. Phía Bắc lũy có ao tắm voi (Bàu Thành). Chúa Nguyễn đã hai lần điều quân vào phá lũy, lần đầu là năm 1658 do phó tướng Dinh Trấn biên là Tôn Thất Yến chỉ huy, lần sau là năm 1674, do Chủ tướng dinh Thái Khang là Nguyễn Dương (Nguyễn Dương Lâm) chỉ huy, Nguyễn Diên làm tiên phong, bình định xứ Mô Xoài. Cả hai lần đều đại thắng, phá được lũy, chiếm được thành, bắt tướng giặc, từ đó, quân Cao Miên không dám xâm phạm biên cảnh nữa. Lũy ấy, trải mấy đời sau cũng nhân theo đó nhận làm yếu địa đồn trú cho đạo Mô Xoài.
Gọi là lũy Mô Xoài (Mỗi Xuy) vì lũy nằm ở xứ Mô Xoài.
Cũng gọi là lũy Hưng Phúc, lũy Hương Phước, vì thời đó xứ Mô Xoài cũng được gọi theo sông, tên làng là Hưng Phúc, Hương Phước.
Gọi là lũy Bô Tâm là do Bô Tâm (người Cao Miên) đắp.
Gọi là lũy Phước Tứ là quan niệm như được ý trời ban cho.

Địa Danh Bà Rịa & tỉnh Phước Tuy thời Việt Nam Cộng Hòa ( 1955-1975 ).
Kể từ thỏa ước năn 1622, chúa Nguyễn Phúc Nguyên với vua Chân Lạp Chey Chetta II, cho phép những nhóm c­ư dân Việt đầu tiên được khai phá xứ Mô Xoài.
Từ đầu thế kỷ 19, Trịnh Hoài Đức đã cho rằng Bà Rịa là “đất có danh tiếng”. Trong Địa chí ßà.Rịα 1902 do Hiệp hội nghiên cứu Đông Dương biên soạn, dựa vào truyền thuyết cho rằng ßà Rịα có nguồn gốc từ tên của một người phụ nữ gốc Phú Yên (miền Trung Việt Nam) vào đây sinh sống, có công khai hoang mở đất, giúp đỡ dân tình.
“Theo thư tịch cổ, ßà Rịα người gốc Phú Yên theo gia đình vào Nam tìm đất sống từ năm 1680.
Gia đình bà vào tại làng Mỹ Khê (Tam Phước, Long Đất). ßà.Rịα cùng với những người dân theo đường Nam tiến đã khai phá rừng rậm lập ruộng vườn, xây dựng làng xóm.
Năm 1698, Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh được chúa Nguyễn Phúc Chu cử kinh lý đất phía Nam, khi quân đổ bộ lên Phước Lễ, lúc đó vừa bị một trận lụt lớn, các cầu đều bị trôi, đường đi lại bị hư hỏng.
Bà Rịa đã huy động nhân dân trong vùng tu sửa đường sá, bắc lại các cây cầu để quân chúa Nguyễn qua sông. Cảm kích công trạng này, chúa Nguyễn đã sắc phong cho ßà Rịα “hàm Nghè” danh dự và cho bà được mang họ Chúa Nguyễn - Nguyễn Thị Rịa , từ đó bà được người dân quý trọng, tiếng vang khắp vùng.
Năm 1759 ßà Rịα qυa đờɨ, không có con cái, 300 mẫu ruộng của Bà được sung vào công điền và chia cho người nghèo. Dân làng nhớ ơn góp sức lập miếu thờ Bà bên đường, nay thuộc địa phận xã Tam Phước, huyện Long Đất thuộc tỉnh Phước Tuy thời Việt Nam Cộng Hòa nay là tỉnh Bà Rịa sau 1975 .

Thích Ca Phật Đài là một quần thể kiến trúc Phật giáo lớn, cũng là một điểm thăm viếng , thắng cảnh và tín ngưỡng nổi tiếng ở thành phố Vũng Tàu. Thích Ca Phật Đài tọa lạc trên núi Lớn (245M-254M) ở Vũng Tàu .
Thích Ca Phật Đài Vũng Tàu là một khu di tích kiến trúc Phật giáo của phái Nam tông, được khởi công xây dựng từ năm 1957 bởi ông Lê Quang Vinh – quan phủ thời Pháp thuộc, ông bất mãn với chế độ nên đã bỏ lên đây dựng chùa để tu hành. Thích Ca Phật Đài Vũng Tàu còn có tên là Thiền Lâm Tự.
Lịch sử
Cuối thập niên 1940, Đại đức Narada Maha Thera sang Việt Nam thuyết giảng giáo lý Nam tông. Khi đến Vũng Tàu, Sư gặp được ông Lê Quang Vinh, một công chức cao cấp trong chính quyền thực dân Pháp, đưa đi thăm viếng các nơi. Khi đến vùng Núi Lớn, Sư từng có ý kiến xây dựng một ngôi chùa tại vùng này.
Vào khoảng năm 1957, ông Lê Quang Vinh, bấy giờ đã hồi hưu, đã về đây khai phá vùng đất hoang vu ở bên sườn núi Lớn. Vào thời điếm này, nơi đây ít cư dân sinh sống mặc dù đã có đường trải nhựa từ Bến Đình đến Bến Đá. Ông cho dựng một ngôi chùa đơn sơ dưới chân Núi Lớn để tu hành, gọi là Thiền Lâm tự. Ông xuất gia và lấy pháp danh là Thích Giác Pháp.
Năm 1960, khi trở lại Việt Nam giảng pháp, Đại đức Narada Maha Thera đã viếng núi Lớn và đã trồng tại đây một cây Bồ đề từ một cây con ở cố đô Anuradhapura nước Tích Lan, gốc chiết từ cây Bồ đề ở Bồ Đề Đạo tràng Ấn Độ. Bấy giờ Giáo hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam đã cho trùng tu ngôi chùa Thiền Lâm, đồng thời cho cất một trai thất nhỏ dành riêng cho Đại đức Narada Maha Thera mỗi khi Sư lưu lại đây. Trong một lần lưu lại chùa Thiền Lâm, Sư góp ý nên xây dựng một bảo tháp để tôn thờ Xá lợi.
Đầu năm 1961, Giáo hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam đã tổ chức vận động quyên góp tài chính để xây dựng một khu Bảo tháp xá lợi và vườn tượng quảng diễn cuộc đời của Đức Phật. Trong quá trình vận động, nhiều tăng ni, Phật tử đã góp ý xây dựng bổ sung thêm Thích Ca Phật Đài. Ý kiến này được nhiều Phật tử ủng hộ và đóng góp thêm tài chính. Cư sĩ khảo cổ Hồ Đắc Thăng được cử làm lãnh đạo thực hiện công trình. Việc tạo tác tượng được giao cho nghệ nhân Bùi Văn Thêm, hiệu Phúc Điền, thực hiện. Học trò ông Phúc Điền là Hoàng Gia Thuận được giao đảm trách khâu mỹ thuật ở công trường.
Lễ đặt viên đá đầu tiên được tiến hành tại Bảo tháp ngày 4 tháng 6 năm 1961. Lễ khởi công xây dựng được tổ chức vào ngày 20 tháng 7 năm 1961. Sau 19 tháng thi công, lễ khánh thành được tổ chức trọng thể vào hai ngày 9 và 10 tháng 3 năm 1963 (tức ngày 14 và Rằm tháng 2 năm Quý Mão).
Năm 1970, chùa Hộ pháp được xây dựng trên sườn núi Lớn gần với khuôn viên của Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu - VNCH.
Kiến trúc :
Quần thể di tích Thích Ca Phật Đài rộng khoảng 28 ha, nằm trên địa thế cao từ 3 đến 29 M so với mực nước biển, gồm 3 khu vực chính là: Tam quan và khu vực trồng hoa; khu nhà nghỉ và khu trưng bày truyền thống; các ngôi chùa và cụm vườn tượng về Phật (khu Phật tích).
Cổng Tam quan là công trình đầu tiên tại Thích Ca Phật Đài với 4 trụ vuông vững chắc, được gắn trên đỉnh 4 đóa sen biểu tượng cho sự trong sạch, tinh khiết và thanh cao của nhà Phật.
Chính giữa cổng là tấm biển lớn đề tên của chùa bằng chữ quốc ngữ, trên cổng thì được đặt một biểu tượng pháp luân – bánh xe luân hồi trong vòng pháp lý nhà Phật với 8 chiếc căm xe tượng trưng Trung đạo và 4 núm ở vòng ngoài đại diện cho Tứ Diệu Đế. Còn được trang trí bằng những họa tiết cầu kỳ, tinh xảo và được lát bằng những mảnh sứ nhiều màu sắc nổi bật như: vàng, xanh, đỏ…nên luôn bắt mắt ngay cả khi nhìn từ xa.
Bảo tháp xá lợi nằm ngay sau cổng Tam quan, được xây dựng giữa khoảng sân rộng với hình bát giác cao 17M, để ghi nhớ và tưởng niệm nhà sư Lê Quang Vinh – người đã có công thành lập nên chùa Thích Ca Phật Đài. Phía trên đỉnh tháp được gắn một búp sen đá, bên trong thì có 13 viên xá lợi Phật do Hòa thượng Narada Maha Thera cúng dường, còn phía dưới 4 chân thì đặt 4 đỉnh lớn chứa đất từ 4 thánh địa Phật giáo nổi tiếng ở Ấn Độ là vườn Lâm – tỷ – ni – nơi Ngài sanh, Bồ Đề Đạo Tràng – nơi Ngài thành đạo, vườn Lộc Uyển – nơi Ngài chuyển pháp luân và rừng Sala song thọ – nơi Ngài nhập niết bàn, nên cực kỳ linh thiêng.
Khu vườn tượng (Phật tích) là khu vực đặc biệt nhất tại chùa, nằm ở độ cao 25M, với nhiều công trình điêu khắc ấn tượng như:
Tượng Kim Thân Phật Tổ: tái hiện hình ảnh Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tọa thiền trước cội Bồ Đề khi tu luyện và đắc đạo, đây cũng là công trình nổi bật nhất và trở thành tên chung cho cả cụm kiến trúc – Thích Ca Phật Đài.
Trong đó, tượng Phật cao 5,1M được đắp tại chỗ theo kiểu Colombo trong tư thế kiết già, hai bàn tay đặt ngửa lên đùi theo tư thế bắt Ấn tam muội, riêng phần đầu thì được đặt đúc tại Sài Gòn và gắn vào thân tượng vào một ngày trời xanh hửng nắng tựa như vầng hào quang của Đức Phật. Còn phần bệ tượng, tức đài sen thì được xây cao 7M, mang hình bát giác tượng trưng cho 8 chánh đạo và được đúc bằng bê tông cốt thép vững chắc.
Tượng Đức Phật đản sanh: mô phỏng hình ảnh một chú bé đứng trên tòa sen, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất với ý nghĩa “giữa trời và đất, chỉ mình ta cao nhất”.
Tượng Đức Phật xuất gia: hình ảnh Thái tử Tất Đạt Đa xuống tóc cao 3,3M cùng người hầu Xa Nặc trong tư thế quỳ cao 1,6M và chú ngựa trắng tên Kiền Trắc cao 2,3M bên cạnh.
Tượng Đức Phật thành đạo: cao 11,6M, được đặt trên bệ bê tông dài 6M và bên trong cất giữ 3 viên ngọc xá lợi Phật quý giá.
Vườn Lộc Giả (vườn Nai): nơi chứa tượng Phật Thích ca ngồi trên tòa sen cao 1,2M, 5 đạo sĩ cao 0,6M ngồi vây quanh nghe thuyết pháp và những lời dạy của Phật khắc trên đá.
Tượng voi và khỉ dâng hoa cho Đức Phật: hình ảnh những con vật được giáo pháp của Đức Phật cảm hóa nên dâng lễ vật cảm ơn.
Tượng Phật Nằm: quay mặt về phía Tây, đặt trên một bệ cao 4,2M, thân Phật (chiều ngang) cao 2,4M, dài 12,2M, bên dưới tượng có 9 Tỳ khưu chắp tay cung kính, qua đó tái hiện hình ảnh Đức Phật nhập Niết Bàn và các đồ đệ xung quanh.
Giá trị Thích Ca Phật đài là một danh lam thắng cảnh nổi tiếng bậc nhất ở Vũng Tàu và miền Nam. Hằng năm, nơi đây tiếp đón cả triệu lượt du khách đến viếng cảnh , chiêm bái.
Thích Ca Phật Đài là Di tích Lịch sử – Văn hóa Việt Nam .
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn