SÔNG NÚI NƯỚC NAM - ĐẤT LINH SINH NHÂN KIỆT : DÃY NÚI TRƯỜNG SƠN BẮC - SÔNG BẾN HẢI , CẦU HIỀN LƯƠNG - VIỆT NAM CUỘC THƯ HÙNG QUỐC-CỘNG . (Phần 5a of 5)

04 Tháng Giêng 202210:24 CH(Xem: 1602)
Hiệp định Genève 20-7-1954 lấy sông Bến Hải làm ranh giới đình chiến giữa hai miền Nam Bắc, từ đó hai chữ Bến Hải đi vào lịch sử Việt Nam.
Sông Bến Hải còn có tên là Rào Thanh bắt nguồn từ vùng núi Động Chân, tỉnh Quảng Trị, thuộc dãy Trường Sơn, cao hơn mặt biển 500M, chẩy theo hướng từ tây nam sang đông bắc, đổ ra biển ở Cửa Tùng, thuộc quận Vĩnh Linh, Quảng Trị. Sông dài chừng 100Km, nơi rộng nhất khoảng 200m, hai đầu sông rất hẹp, ở thượng nguồn nơi có nhà thờ Phước Sơn, sông chỉ rộng 20M, ở Cửa Tùng lòng sông rộng 30M. Sông Bến Hải cũng còn được gọi là sông Bến Hói, theo tiếng địa phương hói có nghĩa là dòng sông nhỏ, từ Bến Hói đọc trại ra là Bến Hải.
Từ đầu nguồn sông Bến Hải chảy được 80Km thì gặp sông Sa Lung từ phía tây bắc đổ vào, hai sông hợp lưu chẩy tiếp ra biển, qua làng Minh Lương ở bờ bắc nên có tên là sông Minh Lương. Do phải kiêng húy tên vua Minh Mạng, nên cả tên làng và tên sông đều đổi thành Hiền Lương, cây cầu gần ngã ba sông cũng mang tên là Hiền Lương.
Cầu Hiền Lương nối liền quốc lộ số 1 bắc qua sông Bến Hải, nơi sông rộng hơn 150m, lui một ít về phía nam vĩ tuyến 17, thuộc quản hạt quận Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Tính đến nay đã có nhiều lần cấu trúc chiếc cầu bắc qua sông Bến Hải thay đổi, nhưng cây cầu lịch sử vẫn là cây cầu từ 1952 đên 1967. Cầu bắt đầu xây dựng bằng gỗ thô sơ năm 1922 dành cho người đi bộ thay đổi nhiều lần .
Cây cầu do người Pháp xây dựng năm 1952 bằng bê tông cốt sắt dài 178m, rộng 4m, hai bên có thành chắn cao 1,2m, trọng tải tối đa 18 tấn, gồm 7 nhịp, mặt cầu lát bằng 894 tấm ván gỗ thông, chia ra miền bắc một nửa, miền nam một nửa, mỗi bên 89m. Ở giữa cầu ngăn ra bằng hai vạch song song, trừ cảnh sát hai bên có thể đi qua hết chiều dài của cầu, người khác chỉ được đứng trong phạm vi giới hạn nam bắc của mình. Cây cầu này tồn tại 15 năm từ 1952 cho đến 1967 khi máy bay Mỹ oanh tạc.
Quảng Trị - Mùa Hè Đỏ Lửa 1972
Lực lượng Cộng sản (CS) :
Để tấn chiếm Quảng Trị , mặt trận B5 CS đã tung ra một lực lượng tương đương 6 Sư đoàn gồm có :
- Sư đoàn 304 do Hoàng Đan chỉ huy, gồm 3 Trung đoàn 66, 24, 29 với sự yểm trợ của Trung đoàn 38 pháo, 4 Trung đoàn phòng không 230, 232, 241 và 280, 2 Tiểu đoàn Hỏa Tiển, một Trung đoàn 202 chiến xa , và một Tiểu đoàn Công Binh tấn công vào mặt phía Tây Quảng Trị..
- Sư đoàn 308 do Phạm Hồng Sơn chỉ huy và Hoàng Minh Thi làm chính Ủy gồm 3 Trung đoàn 103, 88 và 57 được tăng cường hai Trung đoàn 48 và 27 Bộ Binh, Tiểu đoàn 15 biệt lập, Hai Trung đoàn Pháo 164 và 84, một Trung đoàn phòng không, hai Trung đoàn chiến xa 203 và 204, hai Tiểu đoàn Công Binh, một Tiểu đoàn đặc công và 3 Trung đội Hóa Học tấn công từ hướng Bắc.
- Hai Tiểu đoàn Đặc Công 31 & 25 phối hợp với Tiểu đoàn 47 địa phương Vĩnh Linh và Đoàn Đặc Công Hải Quân 126 do Bùi Thúc Dương chỉ huy tấn công vào mặt phía Đông Cửa Việt, Gio Linh và Triệu Phong. - Sư Đoàn 325, Sư Đoàn 320B và SĐ312 trừ bị ém quân tại biên giới Lào Việt.
- SĐ324B do Giáp Văn Cương chỉ huy và Lê Tự Đồng làm chính ủy với 3 Trung Đoàn 6, Trung Đoàn 803 và Trung Đoàn 29 thuộc mặt trận Thừa Thiên, di chuyển vào thung lủng Ashau áp lu75c mạnh trên thành phố Huế.
- 2 Trung Đoàn Biệt Lập 5 và 6 từ thung lủng Ashau ở phía Tây Trường Sơn tiến về đe dọa thành phố Huế và Đà Nẵng..
Lực lượng Quân Lực VNCH ( Việt Nam Cộng Hòa ) :
Lực lượng VNCH có các đơn vị sau đây :
- SĐ3BB đóng tại căn cứ Ái Tử, do Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai làm Tư Lịnh.
- Trung Đoàn 2 đóng tại căn cứ Tân Lâm, A4 Cồn Thiện, Fuller C2 và C3.
- Trung Đoàn 56 đóng tại căn cứ Cam Lộ, Khe Gió và Carrol. (hay Tân Lâm là căn cứ hỏa lực lớn nhất tại vùng giới tuyến) .
- Trung Đoàn 57 đóng tại Căn cứ C1, A1, A2 và A3.
- Thiết Đoàn 11 Thiết Kỵ đóng tại Sharon.
- LĐ147 / TQLC đóng tại Căn cứ Hỏa lực Mai Lộc, Núi Bá Hộ, Holcomb và Sarge.
- LĐ258 / TQLC đóng tại căn cứ Hỏa lực Pedro, Anne, Janne và Barbara.
- Liên Đoàn 1 BĐQ gồm các Tiểu đoàn 21, 37 và 77.
- Liên Đoàn 4, 5 BĐQ tăng cường
- Trung Đoàn 4/SĐ2BB.
- Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh ,Thiết đoàn 17 (M113) và Thiết đoàn 20 (M48)
- Tiểu Đoàn 24 Địa Phương Quân + NQ (Nghĩa Quân)
- 8 Tiểu Đoàn Pháo binh
- SĐ TQLC.: gồm 3 Lữ Đoàn do Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân làm Tư Lệnh
- SĐ ND với 3 Lữ Đoàn do Trung Tướng Dư Quốc Đống làm Tư Lệnh.
Lịch sử Tỉnh Quảng Trị và Cổ Thành.
Tỉnh Quảng Trị phía Bắc giáp Quảng Bình, phía Đông giáp Đông Hải, phía Nam giáp tỉnh Thừa Thiên Huế, phía Tây là dãy Trường Sơn và nước Lào. Diện tích khoảng 4700 km2. Tỉnh lỵ Quảng Trị cách thành phố Huế 55 Km (34 miles) và cách Sài Gòn 1227 Km (767 miles) về hướng bắc.
Phía Đông Quảng Trị là đồng bằng hẹp, phía Tây là rừng núi thuộc Trường Sơn, chiếm gần hai phần ba diện tích tỉnh. Ba sông chính của tỉnh là Bến Hải, Cam Lộ và Sông Thạch Hàn. Sông Bến Hải phát nguồn từ dãy Trường Sơn ra đến biển ở cửa Tùng, dài 75 km (47 miles). Sông Thạch Hàn (còn gọi là sông Quảng Trị) chảy từ quận Hương Hóa và quận Cam Lộ, rồi đổ ra cửa Việt. Sông Cam Lộ (còn gọi là sông Bồ Điền) là con sông đào nối sông Bến Hải với sông Thạch Hãn, chảy qua hai quận Hương Hóa và Cam Lộ. Ngoài ra tỉnh còn có một số dòng sông nhỏ như sông Mỹ Chánh, sông Nhung... Bờ biển Quảng Trị dài 66 km (41 miles), ngoại trừ vùng cửa Tùng lởm chởm đá, suốt bờ biển đều bằng phẳng và có nhiều cát, nên không lập được các hải cảng.
Đất Quảng Trị xưa đã là đất Lập Quốc của Việt Nam, một phần của bộ Việt Thường, một trong 15 bộ của nước Văn Lang. Năm 1069, vua Lý Thánh Tông đánh Chiêm Thành và bắt được vua Chiêm là Chế Củ. Chế Củ liền dâng ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính (bây giờ là Quảng Bình, Quảng Trị).
Năm 1306, Chế Mân dâng hai châu Ô, Lý làm sính lể để cưới Huyền Trân Công Chúa. Năm 1307, vua Trần Nhân Tông đổi Châu Ô làm Châu Thuận, Châu Lý làm Châu Hóa. Châu Thuận gồm đất Phong Điền, Triệu Phong, Hải Lăng Quảng Trị ngày nay.
Tháng mười năm Mậu Ngọ (1558), chúa Nguyễn Hoàng được vua Lê cử vào trấn đất Thuận Hóa, lập dinh ở Ái Tử thuộc phủ Triệu Phong. Năm 1804. vua Gia Long đặt lại tên là dinh Quảng Trị. Tên Quảng Trị có từ đó. Năm 1831, Minh Mạng đặt làm trấn, sau đổi làm tỉnh. Đến đời vua Tự Đức cải làm đạo, nhưng lại đổi thành tỉnh vào năm 1876.
Trước năm 1975, Quảng Trị có các quận như Gio Linh, Trung Lương, Hương Hóa, Hải Lăng, Cam Lộ, Mai Lĩnh và Triệu Phong.
Hơn hai thế kỷ trước, Cổ Thành Quảng Trị là thành lũy quân sự của nhà Nguyễn được xây cất từ đầu đời vua Gia Long (1802), tới năm 1827 vua Minh Mạng cho xây lại bằng gạch. Chu vi tường thành gần 2.000 m, cao 9,4 m, dưới chân dày 12 m, bao quanh có hệ thống hào, bốn góc thành là 4 pháo đài cao nhô hẳn ra ngoài. Trong những năm 1809-1945 nhà Nguyễn lấy làm thành lũy quân sự và trụ sở hành chính. Thành được xây theo lối kiến trúc thành trì Việt Nam với tường thành bao quanh hình vuông được làm từ gạch nung cỡ lớn; kết dính bằng vôi, mật mía và một số phụ gia khác trong dân gian như mủ cây Ô-Dước. Thành trổ bốn cửa chính Đông Tây Nam Bắc. Sau chiến dịch mùa "Hè đỏ lửa" 1972 toàn bộ Cổ Thành Quảng Trị gần như bị san phẳng; chỉ còn sót lại một cửa hướng Đông tương đối nguyên hình và vài đoạn tường thành cùng giao thông hào bên ngoài chi chít vết bom đạn.
Để bảo vệ khu vực Quảng Trị. Quân Lực VNCH phối trí các đơn vị như sau: SĐ3BB tân lập trách nhiệm bảo vệ Quảng Trị. Tư Lệnh là Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai bản doanh Sư Đoàn đặt tại Ái Tử. Trung Đoàn 2, một Trung Đoàn cũ của SĐ1BB, đóng tại các căn cứ A4 hay là Cồn Thiện, Fuller, C2 và C3. Trung Đoàn 56 đóng tại các căn cứ Hỏa Lực Cam Lộ, Khe Gió, và Tân Lâm (Carroll). Trung Đoàn 57 đóng tại CCHL C1 ( Gio Linh), A1, A2 và A3 . Ngoài ra SĐ3BB còn được tăng phái 2 Lữ Đoàn TQLC. Lữ Đoàn 147 TQLC đóng ở CCHL Mai Lộc, núi Bá Hộ, Sarge, Holcomb. Lữ Đoàn 258 đóng tại Pedro (Phượng Hoàng), Anne, Jane, Barbara . Hai Lữ Đoàn TQLC có nhiệm vụ trấn giữ mặt phía Tây của Quảng Trị.
Sư đoàn 3 bộ binh được thành lập ngày 1 tháng 10 năm 1971, có quân số vào khoảng 11.203 người. Trong các đơn vị cơ hửu, chỉ có Trung Đoàn 2 BB rất thiện chiến, vì là một đơn vị tác chiến lâu đời của Sư đoàn 1 BB, lừng danh miền giới tuyến. Riêng hai trung đoàn 56 và 57 tân lập, mà quân số được bổ sung, từ các lao công đào binh,, quân dịch và các đơn vị ĐPQ + NQ Vùng 1 chiến thuật.. Sư đoàn cũng chưa có kinh nghiệm hành quân và tác chiến cấp vùng.
Diển Tiến :
Khởi động chiến dịch tại Quân Khu 1 VNCH, Tướng CS Võ Nguyên Giáp xua 45.000 quân vượt qua sông Bến Hải với hằng trăm chiến xa, hằng trăm đại pháo và một lực lượng tương đương 6 Sư đoàn bộ binh tổng tấn công lấn chiếm tỉnh Quảng Trị, Ải địa đầu cực Bắc VNCH.. Đồng thời tung SĐ324B cùng 2 Trung Đoàn Biệt Lập 5 và 6 từ thung lũng Ashau ở phía Tây Trường Sơn tiến về đe dọa thành phố Huế và Đà Nẵng.
Ngày 30/3/1972 đúng 12 giờ trưa,lợi dụng cơ hội thay đổi vùng trách nhiệm của các Trung Đoàn 56 và Trung Đoàn 57 thuộc SĐ3BB. Bô đội CS bắt đầu pháo kích dữ dội vào các căn cứ trong vùng giới tuyến Carol, Mai Lộc, Sarge, núi Bá Hộ, Tân Lâm, Cồn Thiên, Đông Hà và Quãng Trị. Pháo binh cộng sản, với các loại đại bác nòng dài 130 ly, cũng như hỏa tiển 122 ly tầm xa 27.5 km, từ Vĩnh Linh bên kia cầu Hiền Lương, đồng loạt bắn phá các căn cứ hỏa lực của VNCH, với mức độ tàn phá kinh khủng chưa từng có. Ngay lúc đó, cũng là thời gian hai Trung đoàn 2 và 56/SĐ3BB, đang hoán chuyển vùng, nên bị tổn thất nặng nề về nhân mạng, nhiều vị trí phòng thủ bị bỏ ngỏ, đồng thời làm cho tinh thần binh sĩ, nhất là Trung đoàn 56 giao động mạnh. Sau đó, Cộng quân huy động các đơn vị chủ lực của 2 SĐ304 và 308 cùng 3 Trung Đoàn biệt lập của B5, một Trung Đoàn Đặc Công và 2 Trung Đoàn Chiến Xa 203 và 202 vượt khu Phi Quân Sư chia thành 4 mũi tấn công cường tập vào tuyến phòng thủ của các đơn vị bộ chiến Việt Nam Cộng Hòa đang trấn đóng các căn cứ tại phía Tây và Bắc Quảng Trị.
Các mũi tấn công đầu tiên nhắm vào các căn cứ của Trung Đoàn 2/3BB là Fuller và Cồn Thiên A4, hai mủi khác nhắm vào Trung Đoàn 57 tại các Căn cứ A1 và A2. Hai căn cứ hỏa lực lớn của SĐ3/BB và TQLC tại Carroll và Mai Lộc bị pháo kích nặng nề và liên tục, vì thế không yểm trợ được cho quân bạn. Thời tiết trong mấy ngày đầu của cuộc chiến rất bất lợi cho các đơn vị VNCH. Trần mây thấp và mưa gió, phi cơ chiến thuật, quan sát và trực thăng tiếp tế tản thương VN và HK đã không thể hoạt đông hữu hiệu để yểm trợ đươc cho quân bạn.
Hỏa lực pháo binh CS đã gây tổn thất và kinh hoàng cho dân chúng thuộc 3 quận lỵ giới tuyến, khiến trên 50,000 đồng bào bỏ nhà cửa, chợ búa, ruộng vườn, đổ dồn ra quốc lộ 1 và 9 để chạy giặc về hướng thành phố Quảng Trị phía Nam.
Đến 6 giờ chiều ngày 30/3, hai vị trí của TĐ4/TQLC tại Núi Bá Hô và Sarge bị pháo kích trên 600 quả đại bác và hỏa tiễn đủ loại, 70 phần trăm công sự phòng thủ bị phá hủy, nhiều quân sĩ tử thương và bị thương. Đến 10 giờ 45 đêm 31/3, địch quân tập trung tấn công biển người tràn ngập căn cứ Sarge. Đến 4 giờ sáng hôm sau ngày 1/4/1972, TĐ4/TQLC bị tổn thất nặng phải triệt thoái khỏi 2 cứ điểm Núi Bá Hô và Sarge, đến 6 giờ chiều ngày 2/4 gom về tập trung tại căn cứ Mai Lộc. Đây là 2 vị trí TQLC đầu tiên mất về tay quân CS trong 48 giờ đầu của cuộc tấn công.
Ngày 1/4/72, chiến trường càng trở nên sôi động. Dưới áp lực nặng nề của địch quân, 10 giờ 45 sáng, đơn vị tại căn cứ Cồn Thiên (A4) triệt thoái, 14 giờ 50 chiều, các căn cứ Fuller (thuộc Trung Đoàn 2/BB), Khe Gió (thuộc Trung Đoàn 57/BB) rút bỏ. Dân chúng chạy giặc, xe cộ và binh sĩ bỏ ngũ mang theo gia đình, gây cản trở việc điều quân và lưu thông trên quốc lộ 9 và 1. Tiền sát pháo binh của CS trà trộn vào đám đông di tản để điều chỉnh pháo binh vào các vị trí QLVNCH.
Các căn cứ Đông Hà, Cam Lộ, Ái Tử bị pháo nặng, nhờ hải pháo của Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ, từ ngoài khơi Quảng Trị, bắn vào yểm trợ, vì thời tiết xấu nên không quân không thể yểm trợ hữu hiệu. Bởi vậy lần lượt các căn cứ hỏa lực A-1, A-2, A-3, A-4 do SĐ3BB trấn giữ, bị tấn chiếm. Trước áp lực quá mạnh của địch, BTL/SĐ3 dồn nỗ lực để gom quân và thiết lập hệ thống phòng thủ mới dọc theo tuyến Cửa Việt, Đông Hà, Cam Lộ, Carroll, Mai Lộc và Phượng Hoàng. Hai căn cứ hỏa lực Carroll và Mai Lộc tiếp tục bị pháo kích nặng nề. Chiến xa CS trực tiếp tham chiến. Vào lúc 9 giờ sáng, một lực lượng chiến xa T-54 khoảng 20 chiếc từ hướng Bắc tiến về Đông Hà theo quốc lộ 1. Một lực lượng chiến xa lội nước PT-76 ở hướng Đông, dọc theo bờ biển tiến xuống hướng Cửa Việt. Tình hình căng thẳng, TĐ3/TQLC được lệnh tử thủ Đông Hà "bằng mọi giá". Toán chống chiến xa trang bị đại bác 106 ly của TĐ6/TQLC từ Ái Tử được điều động lên tăng cường cho Đông Hà. Nhờ thời tiết tương đối tốt, phi cơ A-1 và A-37 của Không Quân VN bay lên oanh tạc chính xác vào 2 đoàn chiến xa địch, phá hủy 11 chiếc, 1 chiếc A-1 bị hỏa tiễn địa không SA-2 bắn rơi, phi công nhảy dù ra được, nhưng rơi về phía bắc cầu Đông Hà. Để đề phòng chiến xa địch vượt qua cầu Đông Hà, vào 16 giờ 30 chiều cùng ngày, chiếc cầu này được giật xập, để ngăn cản kế hoạch của CS đưa bộ binh và chiến xa tiến xuống phía Nam.
Ngày 2/4/1972 BTL/SĐTQLC và Lử Đoàn 369 được không vận ra Huế để thiết lập tuyến phòng thủ phía Bắc Sông Mỹ Chánh. TĐ7 TQLC được lệnh trấn giữ con đường huyết mạch QL số 1, từ Hải Lăng về Mỹ Chánh. Trong ngày nầy, Cộng sản cắt đứt QL9 từ Đông Hà đến Cam Lộ. Căn cứ Holcomb của TĐ8TQLC, bị SĐ304 tấn công tràn ngập lúc 12 giờ 30 khuya .
Tình hình chiến sự rối loạn khắp nơi, cùng lúc đồng bào từ các quận Cam Lộ, Hương Hóa, Gio Linh, Đông Hà, bất kể Kinh hay Thượng, ùn ùn bỏ làng xóm, tài sản, kéo nhau chạy về thành phố Quảng Trị để trốn lánh chiến họa. Trên đường đào sanh, hằng ngàn người đã làm mồi cho đạn pháo binh và thiết giáp của bộ đội cộng sản , gây thêm rối loạn cho các đơn vị của VNCH , vì vừa phải bảo vệ cho dân chúng, lại vừa chiến đấu với giặc trong cơn nguy ngập.. Đạn pháo của địch càng lúc càng dữ tợn, hung tàn, phá hết tất cả , không cần phân biệt xóm làng, dân lính, thành phố đông người. Do đó trong phút chốc, những khu đông dân như Cam Lộ, Đông Hà trở thành địa ngục trần gian đau khổ, mà không một ai, có thể ngờ tới, tình cảnh của dân chúng chạy loạn cũng vô cùng thê thảm , khiến cho các cấp chỉ huy của SĐ3BB và Tiểu Khu Quảng Trị, gần như bó tay, vì không tìm ra kế hoạch nào, để ổn định tình thế.
Trong lúc đó căn cứ hỏa lực Carroll (Tân Lâm) của Trung đoàn 56 BB bị vây khổn, Cộng quân vẫn tiếp tục pháo kích dữ dội vào căn cứ nhưng không có quân tiếp viện. Đúng 14 giờ 30 chiều, Trung Tá Phạm Văn Đính Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 56/3BB , đã đầu hàng Cộng sản cùng với 1,500 binh sĩ VNCH bị quân CS bắt giữ và 22 khẩu đại bác, trong đó có 4 khẩu đại bác 175 ly, 10 khẩu 105 ly của pháo đội TQLC, còn lại là pháo đội 155 ly và 105 ly của pháo binh QĐ1 và SĐ3/BB. Biến cố nầy xảy ra trong ngày 2/4, gây chấn động không ít đến tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ vùng giới tuyến.
Sau khi căn cứ hỏa lực Carroll thất thủ, căn cứ hỏa lực Mai Lộc, nơi đặt BCH của LĐ147/TQLC trở thành tuyến đầu, đã liên tục bị pháo kích và tấn công. Được lịnh tái phối trí, pháo đội 105 ly TQLC tại đây sau khi bắn hết đạn, đã được phá hủy bằng chất nổ. Đến 10 giờ tối, BCH/LD và TĐ4/TQLC triệt thoái khỏi Mai Lộc về Đông Hà. Sáng hôm sau, LĐ147/TQLC được lệnh di chuyển về Huế để bổ sung và tái trang bị.
Bộ Tư Lệnh SĐ3BB di chuyển Bộ Chỉ Huy tiền phương tại căn cứ Ái Tử bị pháo kích nặng nề, để lui về Quảng Trị. Trung đoàn 57 cũng được lệnh bỏ căn cứ Gio Linh, rút về bờ nam Đông Hà và LĐ258 với các Tiểu Đoàn 1,3 và 6 /TQLC được tăng cường thêm TĐ3PB/TQLC vẫn duy trì tại các căn cứ Ái Tử, căn cứ Phượng Hoàng và Đông Hà. TĐ7/TQLC đang trấn ngự tại QL1 được điều động ra tăng cường phòng thủ căn cứ Ái Tử. ( như vậy là bỏ ngỏ QL1 từ Mỹ Chánh tới Cam Lộ) .
Tính đến sáng ngày 3/4/1972, sau 4 ngày tấn công của quân CS , 11 căn cứ hỏa lực của QLVNCH tại giới tuyến đã thất thủ liên tiếp, mất đi 53 khẩu trọng pháo đủ loại làm cho Pháo Binh VNCH bị suy yếu, trên 7 ngàn binh sĩ tử thương, bị thương, bị bắt và thất lạc đơn vị.
Ngày 3/4, Bộ TTM không vận BTL/SĐ/TQLC, BCH/BĐQ và LĐ369/TQLC từ Sài Gòn ra tăng cường QĐ1. BTL/SĐTQLC đặt trong Thành Nội Huế. LĐ369/TQLC trừ bị và phòng thủ tại các căn cứ Nancy, Jane, Evan và phòng tuyến Mỹ Chánh, ranh giới giữa hai Tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên.
Các sư đoàn CS vẫn tiếp tục hướng các mũi tấn công váo Thị xã Quảng Trị, Vì Cầu Đông Hà bị giật sập, nên Cộng quân dùng cầu Cam Lộ để vượt sông. Họ chia quân ra làm 2 cánh: một cánh quân đi dọc theo QL9 tiến chiếm Đông Hà, Cửa Việt và theo QL1 tiến về hướng Nam . Một cánh quân khác tiến về hướng Nam, theo tỉnh lộ 558 và 557 qua những cứ điểm vừa chiếm như Carroll, Mai Lộc, Holcomb để tấn công căn cứ Phượng Hoàng và Thị xã Quảng Trị từ hướng Tây.
- Ngày 4/4/1972 sau khi Lữ Đoàn 147/TQLC rút lui về Huế để chỉnh trang, như vậy về phía tây, chỉ còn có 1TĐ/BĐQ, trấn giữ căn cứ Phượng Hoàng, làm tiền đồn, bảo vệ thành phố.
- Ngày 6/4/1972 lực lượng CS từ Ba-Lòng phía Nam sông Thạch Hãn tiến về uy hiếp Căn cứ Anne do một đơn vị thuộc Trung Đoàn 2/3BB trấn giữ. Căn cứ Anne được lịnh lui binh rút về Cam Lộ.
- Ngày 8/4/1972, LĐ258 điều động TĐ3TQLC trấn đóng căn cứ Ái Tử thay thế TĐ6TQLC đến trấn giữ căn cứ Phượng Hoàng thay thế cho một TĐ/BĐQ.
- Sáng ngày 9/4/1972 với chiến thuật tiền pháo hậu xung, sáng sớm hai Trung Đoàn cộng quân có chiến xa T54 yểm trợ tấn công căn cứ Phượng Hoàng. Pháo binh VNCH yểm trợ đúng lúc, Bộ Đội Cộng sản chạy tán loạn,một số chiến xa cán phải mìn bị nổ tung. Phi cơ Skyraider A1 can thiệp phá huỷ thêm nhiều chiến xa địch.
Hai Đại Đội / TĐ1TQLC cùng 1 chi đoàn chiến xa M48 và 1 chi đoàn Thiết Vận Xa M113 từ Ái Tử đến trợ chiến phá tan cuộc tấn công của địch. 400 xác cộng quân bỏ lại trận địa, 21 chiến xa T54 bị cháy, phần lớn do Không quân Việt- Mỹ oanh kích, bãi mìn cùng pháo binh. 2 chiếc bị bắt sống. Trước tình hình nghiêm trọng, Bộ TTM quyết định tăng cường Liên Đoàn 4 và 5 BĐQ cho Quân Đoàn I.
- Ngày 13/4/1972 Lữ Đoàn 258TQLC được điều động giữ tuyến phòng thủ từ Ái Tử đến Phượng Hoàng. Từ Ái Tử lên mạn Bắc tới QL1, Đông Hà là vùng trách nhiệm của LĐ5BĐQ và Thiết Đoàn 17 Kỵ Binh. Từ Cam Lộ trở về dọc theo QL9 là tuyến án ngữ của LĐ4BĐQ và Thiết Đoàn 20 Kỵ Binh. Trung Đoàn 2/BB trách nhiệm khu vực Nam Ái Tử đến bờ Bắc sông Thạch Hãn. Liên Đoàn 1/BĐQ phòng thủ thị xã Quảng Trị, lập phòng tuyến tại bờ Nam sông Thạch Hãn.
- Ngày 14/4/1972 với sự yểm trợ hỏa lực của Mỹ, sự chiến thắng của LĐ/TQLC tại Pedro và sự tăng cường lực lượng của BĐQ, Tướng Hoàng Xuân Lãm đã mở cuộc hành quân Quang Trung 729 để tái chiếm vùng lảnh thổ bị mất về tay CS: Trung Đoàn 57BB phòng giữ tuyến phía Bắc, trong khi các đơn vị BĐQ, TQLC và Thiết Giáp chỉa mũi dùi tấn công vào mặt phía Tây của Tỉnh Quảng Trị.
Chiến cuộc bùng nổ lớn, tất cả các cánh quân đều chạm địch cộng quân đã chống trả và pháo kích nặng nề vào các đơn vị hành quân. Bởi vậy thay vì quân ta tấn công, lại bị giặc đẩy ngược về phía thành phố. Trong số này, nguy khổn nhất là cánh quân của LĐ5 BĐQ và Thiết đoàn 20 chiến xa, tuy nhiên các đơn vị của QLVNCH vẫn còn giữ vững đựợc các vị trí trách nhiệm. Do vì việc tổ chức phối hợp không đồng bộ và pháo trận cường tập của đối phương khiến cho cuộc hành quân không hữu hiệu và còn làm suy yếu tiềm lực phòng thủ sẵn có.
- Ngày 18/4/1972 thất bại trong trận tấn công căn cứ Phượng hoàng, Cộng sản đã tung thêm quân áp lực nặng căn cứ này và bắt đầu phản kích lại.
- Ngày 23/4/1972 bất chấp sự thiệt hại to lớn trong những ngày đụng độ vừa qua với QLVNCH, Cộng sản vẫn điên cuồng tấn công khắp nơi bằng biển người, bất chấp sinh mạng con người, trong đó phần lớn là đồng bào chạy lánh nạn.Trong lúc đó khắp các nẽo đường Quảng Trị, càng lúc càng chết chóc thê thảm , bởi cảnh pháo kích bừa bãi của cộng sản. Quảng Trị đã thật sự trở thành địa ngục trần gian thứ hai, sau địa ngục An Lộc.
- Ngày 24/4/1972 Lữ đoàn 147 TQLC với 2 TĐ4 và 8/TQLC và TĐ2/PB/TQLC sau khi được bổ sung và tái trang bị, đuợc lệnh trở ra Quảng Trị thay thế vùng trách nhiệm cũa LĐ258/TQLC phía Tây căn cứ Ái Tử và tiếp nhận thêm TĐ1/TQLC đang phòng thủ tại Phượng Hoàng.
Trong đêm này CS pháo kích làm cháy kho tiếp liệu của SĐ3BB tại La Vang , trong đó có kho xăng dầu và cả một đoàn xe tiếp tế quân trang quân dụng của Bộ Chỉ Huy 1 Tiếp Vận, từ Đà Nẵng tới.
- Đêm 26/4, sau nhiều đợt pháo kích, SĐ304/CS cùng với chiến xa, đã mở nhiều mũi tấn công tuyến phòng thủ của LĐ147/TQLC. Hai TĐ1 và 8/TQLC đẩy lui nhiều đợt tấn công, bắn cháy 12 chiến xa T-54. Ngày hôm sau, tuyến phòng thủ của TQLC phải thu hẹp lại, chỉ còn cách Ái Tử từ 2 đến 3 cây số.
- Ngày 27/4/1972 cộng quân tổng tấn công tất cả tuyến phòng thủ của VNCH từ cửa Việt xuống đến căn cứ Phượng Hoàng. Tất cả nòng súng đại pháo của quân CS , đều tập trung vào tỉnh lỵ, căn cứ hỏa lực Ái Tử, các quận Mai Lỉnh và Hải Lăng. Đêm 27/4, pháo binh CS bắn trúng kho đạn Ái Tử, phá hủy phần lớn đạn dược dự trữ.
- Ngày 28/4, Cộng quân pháo dữ dội vào tuyến phòng thủ của Biệt Động Quân ở thị trấn Đông Hà, trong 2 ngày khoảng 7,000 quả đạn, đồng thời với chiến xa yểm trợ đã tấn công vào tuyến phòng thủ của đơn vị nầy, Tiểu Đoàn 30/LĐ5BĐQ đã bắn hạ 13 chiến xa T54 và bắt sống một chiếc khác tịch thu hằng trăm vũ khí. Tuy nhiên LĐ/BĐQ và Thiết Đoàn 20 Kỵ Binh bị thiệt hại năng vì pháo địch. Để bảo toàn lực lượng, các đơn vị này đã được lịnh triệt thoái để tăng cường bảo vệ phòng tuyến căn cứ Ái Tử và phòng thủ mặt Đông tiếp giáp với TĐ8/TQLC. Trong khi đó, Trung Đoàn 57/BB triệt thoái về Thị xã Quảng Trị. Trong đêm này cộng quân cũng tung chiến xa và bộ đội tràn qua cầu Ga Quảng Trị nhưng đã bị đẩy lùi.
Trong lúc đoàn người tị nạn thay vì tâp trung tại Quảng Trị, lại ùn ùn tiếp tục bỏ chạy về Huế tị nạn, gây cảnh hỗn loạn trên quốc lộ 1 và làm mục tiêu cho pháo binh cộng sản. Các cánh quân cũng bắt đầu náo động vì vợ con tan tác chạy lánh nạn. Do đó nhiều đơn vị đã tự động di tản, làm cho Bộ Tư Lệnh SĐ3BB cũng là đầu não chiến trường, mất liên lạc với một số lớn đơn vị trực thuộc.
- Trong đêm 29/4, địch liên tiếp pháo kích và tấn công vào phòng tuyến của TQLC và Trung Đoàn 2/BB phía Tây và Tây Nam căn cứ Ái Tử. Sáng hôm sau, các chiến xa M-48 tăng phái cho BĐQ được điều động qua mặt trận phía Tây của TQLC. Vì thiếu phối hợp, lực lượng BĐQ nghĩ rằng, đơn vị thiết giáp bạn rút lui, nên cũng đã triệt thoái về Quảng Trị, chỉ còn lại LĐ 147/TQLC phòng thủ căn cứ Ái Tử, 2 mặt Bắc và Đông bị bỏ trống. Trưa ngày 30/4, LĐ147/TQLC được lệnh rút khỏi Ái Tử về phòng thủ thị xã Quảng Trị. Kế hoạch triệt thoái được thi hành tốt đẹp.
- Trong khi đó ngày 28/4/1972 mặt trận B4 CS tại mật khu 611 tung SĐ324B gồm 2 Trung Đoàn 29 và Trung Đoàn 803 bao vây rồi tràn ngập căn cứ Bastogne ở phía Tây thành phố Huế do một Tiểu Đoàn của SĐ1BB trấn giữ. Trước áp lực quá nặng của CS căn cứ Checkmate gần đó được lịnh di tản. Đồng thời với việc tấn chiếm 2 căn cứ Bastogne và Checkmate, Trung Đoàn 66/304 CS cũng đang tập trung về vùng thung lũng Ashau để chuẩn bị tấn công Huế.
- Trong ngày 30 tháng 4, thế trận phòng thủ của lực lượng Việt Nam Cộng Hòa tại Quảng Trị đã trở nên nguy ngập.Lúc 2 giờ sáng, cộng sản tấn công Trung đoàn 2/3BB và Thiết đoàn 17, tại căn cứ phía tây thành phố, trong lúc đó về phía bờ biển, cộng sản với bộ binh có chiến xa lội nước PT76, tấn công tràn ngập các Tiểu đoàn ĐPQ + NQ của Tiểu Khu Quảng Trị.
Quảng Trị thất thủ :
Tình trạng hỗn loạn khắp nơi, Tướng Giai phải quyết định bỏ căn cứ Ái Tử, rút hết về bờ Nam sông Thạch Hãn phòng thủ. Trung đoàn 57 BB coi như tan hàng, vì hầu hết binh sĩ đã rã ngũ , để chạy theo gia đình đang di tản về Huế. Quốc lộ số 1 đã bị cộng sản đóng chốt nhiểu đọan, từ Hải Lăng về Mỹ Chánh vì Tiểu đoàn 7 TQLC đã di chuyển ra phòng thủ căn cứ Ái Tử.
Cùng với những cố gắng trong nỗ lực ngăn chận Cộng quân, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 3 BB điều động lực lượng để giải tỏa áp lực địch trên Quốc Lộ 1.Thế nhưng kế hoạch giải tỏa tiến hành chậm vì thiếu sự phối hợp giữa các đơn vị và hỏa lực địch phản công.
Do đó đoạn đường huyết mạch, chì có chín cây số, bị bỏ ngỏ để quân cộng sản đóng chốt, đã trở thành con đường xương trắng máu đào., mà bia miệng và sử liệu gọi là Đại Lộ Kinh Hoàng hay là Mồ Chôn tập thể đồng bào tỉnh Quảng Trị, trong trận chiến Mùa Hè Năm 1972.
Trước các biến động chiến sự ngày càng nguy kịch, sáng ngày 30 tháng 4, Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai, Tư Lệnh Sư Đoàn 3 BB, triệu tập buổi họp tại Bộ Tư Lệnh Hành quân Sư Đoàn trong Cổ Thành Quảng Trị (tức trại Đinh Công Tráng). Tướng Giai trình bày kế hoạch triệt thoái về phía Nam sông Thạch Hãn.
Theo sự phối trí, Lữ Đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) từ căn cứ Ái Tử sẽ rút về thị xã Quảng Trị để lập vòng đai cố thủ bảo vệ tỉnh lỵ. Một tuyến phòng thủ mới dọc theo bờ Nam sông Thạch Hãn sẽ được thiết lập bởi lực lượng Bộ Binh và Biệt Động Quân (BĐQ) với sự yểm trợ của một nửa lực lượng chiến xa và thiết vận xa. Thành phần Thiết Giáp (TG) còn lại sẽ phối hợp với đơn vị bộ chiến để giải tỏa Quốc Lộ 1 về hướng Nam. Tất cả các đơn vị sẽ hoàn tất kế hoạch di chuyển vào ngày hôm sau. Riêng Lữ Đoàn 147 TQLC sẽ rời căn cứ Ái Tử trưa ngày 30 tháng 4/1972.
Trưa ngày 30 tháng 4 khi các đơn vị của Lữ Đoàn 147 TQLC về đến bờ Bắc sông Thạch Hãn thì cả hai cây cầu ngang sông Thạch Hãn đã bị giật sập. Cầu Ván do Cộng quân giật sập đêm 28 tháng 4/1972, còn cầu Sắt thì do thiếu phối hợp, toán Công Binh đã đặt chất nổ phá cầu trước khi đoàn quân xa của Tiểu Đoàn 2 Pháo Binh TQLC và ba tiểu đoàn 1, 4 và 8 TQLC đi qua. Đoàn xe và 12 súng đại bác đã được phá hủy trước khi vượt sông Thạch Hãn, và các đơn vị TQLC đến chiếm giữ các vị trí trọng yếu quanh thị xã.
- Sáng ngày 1/5/72, BTL/SĐ3/BB thông báo cho các đơn vị trú phòng nguồn tin: "5 giờ chiều địch sẽ pháo trên 10,000 đạn pháo binh và hỏa tiễn vào thị xã Quảng Trị", và cho lệnh các đơn vị lui quân khỏi thành phố để tránh pháo. Từ lệnh lui quân tránh pháo này đã đưa đến cảnh rút lui hỗn loạn, kéo theo hàng vạn đồng bào tản cư về Huế theo quốc lộ 1.
- Ngày 2/5 Tướng Giai tuyên bố bỏ thành phố Quảng Trị và di tản chiến thuật...
Tầm Quan Trọng Của Trại Carroll :
Trước năm 1968, Trại Carroll, nằm cách thị trấn Cam Lộ 8 Km về phía Tây Nam, là một trong 9 CCHL trọng yếu của Sư Đoàn 3 TQLC Hoa Kỳ (3rd Marine Division) chịu trách nhiệm phòng thủ KPQS. Tên của trại được đặt theo tên của Đại ÚyJames J. Carroll, một Đại Đội Trưởng của Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 4, Sư Đoàn 3TQLC Hoa Kỳ, tử trận ngày 5-10-1966.
Với tư cách là một CCHL, Trại Carroll có một lực lượng pháo binh lên tới 80 cổ trọng pháo, trong đó có cả đại pháo 175 ly có tầm bắn trên 32 Km. Tuy nhiên, Trại Carroll không phải chỉ thuần túy là một CCHL mà cònlà một căn cứ đóng quân với đầy đủ các doanh trại và phương tiện đồn trú và phòng thủ cho nguyên cả một đơn vị cấp lữ đoàn hay trung đoàn.
Trong kế hoạch phòng thủ vùng giới tuyến của QLVNCH, ngay phía Nam KPQS, Trại Carroll được xem là một cứ điểm rất quan trọng để ngăn chận các cuộc tấn công của Cộng quân vào tỉnh Quảng Trị từ phía Tây. Trại Carroll có lợi điểm lớn là nằm trong một vùng đồi thấp ngay bên sườn phía Đông của dãy Trường Sơn, có thể kiểm soát toàn vùng chung quanh trong vòng bán kính 15 dặm. Chung quanh trại là hàng rào phòng thủ rất vững chắc với hệ thống hầm chống pháo kích được tăng cường với gỗ cứng, bao cát, hàng rào kẽm gai (reinforced bunkers). Sau khi được giao lại cho QLVNCH, Trại Carroll tuy không còn đầy đủ số trọng pháo như trước, nhưng với một pháo đội 175 ly (6 khẩu) cùng với các khẩu đội 155ly và 105 ly, tất cả là 22 khẩu trọng pháo, không kể số trung liên và đại liên,thì hỏa lực yểm trợ và khả năng phòng thủ của trại vẫn còn rất đáng kể so với các căn cứ đóng quân khác trong vùng. Chính vì thế Tướng Vũ Văn Giai, Tư Lệnh Sư Đoàn 3 BB, chịu trách nhiệm phòng thủ tỉnh Quảng Trị, đã có lệnh cho Trung Đoàn 56 là phải giữ cho được Trại Carroll bằng mọi giá.
Trung Đoàn 56 Bị Tấn Công, Bao Vây và Bỏ Rơi.
Ngay từ giờ phút đầu tiên của cuộc Tổng Tấn Công này, Trung Đoàn 56 đã gặp nhiều khó khăn lớn. Theo chương trình do Tướng Giai đề ra, Trung Đoàn 56 sẽ tiếp quản các vị trí đóng quân của Trung Đoàn 2 trong đó có Trại Carroll và các CCHL Khe Gió và Fuller. Đổi lại, Trung Đoàn 2 sẽ di chuyển vào các căn cứ đóng quân phía Bắc Cam Lộ mà Trung Đoàn 56 sẽ rời bỏ. Từ sáng sớm ngày Thứ Năm, 30-3-1972, Trung Đoàn 56 thực hiện rất trật tự việc hoán chuyển khu vực hành quân với Trung Đoàn 2. Tiểu Đoàn 3, do Thiếu Tá Hà Thúc Mẫn làm Tiểu Đoàn Trưởng,là đơn vị đầu tiên rời CănCứ C2 ờ phía Bắc sông Cam Lộ để tiến về phía Nam tiếp quản Căn Cứ Khe Gió. Tiếp theo là Tiểu Đoàn 1, do Thiếu Tá Tôn Thất Mãn làm Tiểu Đoàn Trưởng, có nhiệm vụ bảo vệ Quốc Lộ 9 cho các đơn vị khác của Trung Đoàn 56 di chuyển, và sau đó sẽ tiến về phía Nam để tiếp quản CCHL Fuller. Các đơn vị của Tiểu Đoàn 2, có sự hiện diện của Trung Tá Vĩnh Phong, Trung Đoàn Phó Trung Đoàn 56 cùng với Thiếu Tá Cố Vấn Brown, tiếp tục nằm tại Căn Cứ C2 để chờ bàn giao cho các đơn vị của Trung Đoàn 2 đến tiếp quản.
Cuộc chuyển quân của Trung Đoàn 56 vẫn chưa hoàn tất thì cuộc Tổng Tấn Công của Cộng quân xảy ra. Vào khoảng sau 11 giờ 30, Trung Tá Đính và TrungTá Camper cùng với đại đội chỉ huy và một đại đội bộ binh vừa vào Trại Carroll, chưa kịp tổ chức phòng thủ gì cả , thì Trại Carroll bị pháo kích dữ dội bằng trọng pháo 130 ly của Cộng quân. Trung Tá Camper kể lại như sau:
“We had no radio contact with the battalion north of the river, and my jeep wasdestroyed and my radios were destroyed in the first hour. The artillery knocked out the generators andthe lines leading to the bunkers … It was difficult for the regiment tooperate.”
(Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Chúng tôi đã không liên lạc được với tiểu đoàn còn ở phía Bắc con sông, và xe jeep của tôi đã bị phá hủy, các máy truyền tin của tôi cũng bị phá hủy trong giờ đầu tiên. Pháo binh của họ đã phá hủy các máy phát điện và các đường dây dẫn vào các hầm trú ẩn … Trung đoàn đã hoạt động rất khó khăn.”).

Việc pháo kích dữ dội này diễn ra không phải chỉ tại Trại Carroll mà là ở tất cả các căn cứ đóng quân và CCHL tại vùng giới tuyến Quảng Trị, ngay phía Nam của KPQS, thuộc trách nhiệm của Sư Đoàn 3 BB và các đơn vị TQLC được tăng phái, cụ thể là:
· Các căn cứ A2, A4 và C1, C2 ở phía Bắc Quảng Trị
· Các CCHL Fuller,Khe Gió và Sarge, và các Trại Carroll(tức là Tân Lâm) và Mai Lộc ở phía Tây Quảng Trị
Cùng lúc với các trận pháo tập kích này , ở phía Bắc, 4 mũi tấn công của Sư Đoàn 308 CS nhắm vào các căn cứ đóng quân A1, A2, A4, và CCHLFuller; ở phía Tây các đơn vị của Sư Đoàn 304 và Trung Đoàn độc lập 26 của Cộng quân tấn công vào các đơn vị của Lữ Đoàn 147 TQLC tại căn cứ Núi Bá Hộ, và 2 CCHL Sarge và Holcolmb. Vì thời tiết không thuận lợi, việc yểm trợ bằng không quân cho các căn cứ bị tấn công này đã được thực hiện rất là giới hạn.
Đến đêm các cuộc pháo kích vào các đơn vị của Sư Đoàn 3 BB và TQLC vẫn tiếp tục. Tính ra nội trong ngày 30-3-1972, Cộng quân đã bắn đi tất cả 11.000 quả đại bác vào các căn cứ của QLVNCH. Đến giữa khuya, các cứ điểm của TQLC tại Núi Bá Hộ và Sarge có nhiệm vụ bảo vệ phía Tây Trại Carroll bị áp lực rất nặng nề. Trung Tá Đính nhận định rõ là các đơn vị Cộng quân đang xiết chặt vòng vây chung quanh Trại Carroll, nhưng ông vẫn tin là còn có thể cố thủ, chưa đến nổi tuyệt vọng.
Sáng hôm sau, 31-3-1972, tình hình vẫn nghiêm trọng như ngày hôm trước. Các căn cứ Núi Bá Hộ và Sarge vẫn tiếp tục bị pháo kích và tấn công liên tục. Cũng trong ngày này, các đơn vị của Trung Đoàn 56 cũng bắt đầu bị các đơn vị quân CS trực tiếp tấn công. Tại phía Bắc Quốc Lộ 9, Tiểu Đoàn 1 chạm súng ác liệt với 1 tiểu đoàn CS , và phát hiện 4 xe tăng của địch. Về phía Đông, Trung Tá Đính cho gọi Tiểu Đoàn 2 nhanh chóng di chuyển về Trại Carroll để tăng cường việc phòng thủ Trại. Tiểu Đoàn 2 đã không thực hiện được ngay việc di chuyển về Trại Carroll như mong muốn vì bị pháo kích liên tục. Về phía Tây Bắc, các đơn vị của Tiểu Đoàn 3 (Trung Đoàn 56) tại Khe Gió và của Tiểu Đoàn 1 (Trung Đoàn 2) tại Fuller bị tấn công dữ dội và đến trưa thì cả 2 căn cứ này đều bị địch quân tràn ngập. Vào khoảng giữa buổi chiều cùng ngày, các đơn vịTQLC tại cả 2 căn cứ Núi Bá Hộ và Sarge cũng phải rút khỏi các căn cứ này, phá vòng vây của địch và mở đường máu rút về Trại Mai Lộc.
Việc tiếp tế bằng đường bộ từ Cam Lộ cũng không còn thực hiện được nữa. Trại Carroll hoàn toàn bị cô lập và bao vây tứ phía. Trước tình hình rất nguy kịch này, tinh thần binh sĩ trong Trại Carroll xuống rất thấp. Trung Tá Đính biết rất rõ chuyện này. Ông gọi cho Tuớng Giai, báo cáo về tình hình nguy cấp của Trại Carroll và nói rõ nếu không được tiếp viện Trại Carroll sẽ không giữ được nữa trong vài ngày tới. Ông nói với Tướng Giai cả suy nghĩ của ông về tình hình tại vùng giới tuyến, ông cho rằng nếu không có viện binh, cả Sư Đoàn 3 cũng không chắc có thể giữ nổi Quảng Trị.
Tướng Giai đồng ý với nhận định này, cho biết đã có báo về Sài Gòn xin tiếp viện nhưng chưa được trảlời.
Trung Tá Đính rất nghi ngờ khả năng trung ương sẽ tiếp cứu vì ông nhớ lại rất rõ kinh nghiệm đau đớn của trận Hạ Lào vào năm trước(Hành Quân Lam Sơn 719, tháng 2-3 năm 1971): bị cô lập, bị bao vây, và bị bỏ rơi, và phải tự mở đường máu để rút về của Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 2, Sư Đoàn 1 BB; trong biến cố bi thảm đó Tiểu Đoàn Trưởng Trung Tá Trần Ngọc Huế (ông vừa được thăng cấp lên Trung Tá tại mặt trận hơn 10 ngày trước đó) bị thươngnặng và bị bắt làm tù binh vào ngày 20-3-1971.
Sáng ngày 1-4-1972, trong khi Trại Carroll đã hoàn toàn bị cô lập và bao vây thì mặt trận phía Đông Quảng Trị cũng bi đát không kém. Bốn cứ điểm từ A1 đến A4, do các đơn vị của Trung Đoàn 57, Sư Đoàn 3 BB chịu trách nhiệm, sau 2 ngày bị pháo kích liên tục, bắt đầu bị các đơn vị của Sư Đoàn 304 CS tấn công dữ dội. Căn Cứ A2 bị tràn ngập, trực thăng Mỹ chỉ lo cứu các Cố Vấn Mỹ và bỏ mặc binh sĩ Việt làm cho tinh thần chiến đấu của binh sĩ của Sư Đoàn 3, mà như đã được trình bày là không cao lắm, càng sa sút nặng nề. Các căn cứ còn lại đều bị áp lực rất nặng nề. Chấp nhận ý kiến của Đại Tá Metcalf, Cố Vấn Trưởng của Sư Đoàn, Tướng Giai, vào lúc 6 giờ chiều, ra lệnh cho các đơn vị của 2 Trung Đoàn 2 và 57 rút lui về phía Nam, thiết lập tuyến phòng thủ mới tại bờ Bắc sông Cửa Việt. Tối hôm đó,Tướng Giai cũng quyết định dời bộ chỉ huy của ông từ căn cứ Ái Tử về Quảng Trị. Hai quyết định này của Tướng Giai đều rất hợp lý nhưng trong hoàn cảnh nguy ngập và xuống tinh thần trầm trọng của binh sĩ Sư Đoàn 3 BB lúc đó, đã khiến cho cuộc triệt thoái diễn ra trong hỗn loạn.
Tình trạng gần như tan rả của Sư Đoàn 3 ở mặt trận phía Đông Bắc Quảng Trị như thế, đối với Trung Tá Đính, có nghĩa là ông còn không còn có thể trông mong gì về tiếp viện từ Sư Đoàn 3 nữa rồi. Ông cố gắng liên lạc với các tiểu đoàn cơ hữu của Trung Đoàn 56 của ông để gom họ về phòng thủ Trại Carroll. Với những tổn thất rất nặng nề trong cuộc lui quân nhưng sau cùng các tiểu đoàn 1/56, 2/56 và 3/56 cũng đã về đến được TrạiCarroll. Lương thực và đạn dược của Trại Carroll bắt đầu thiếu hụt và không có hy vọng được tiếp tế nữa. Ngay các phi vụ tải thương cũng không còn được thực hiện nữa. Binh sĩ trong trại phải đào những hố cạn để chôn các đồng đội tử trận. Giữa lúc đó,Trung Tá Đính nhận được một cú gọi của Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư Lệnh Quân Đoàn I. Tướng Lãm báo cho ông biết sẽ không có tiếp viện, nhưng không cho phép rút lui mà trái lại ra lệnh cho ông phải tử thủ. Cú điện thoại này lại làm cho ông nhớ lại tình cảnh của Trung Đoàn 2, Sư Đoàn I BB trong trận Hạ Lào vào tháng 3-1971. Đêm đó, Trung Tá Đính suy nghĩ rất nhiều, ông thấy rõ không còn hy vọng gì nữa cả, và cấp trên đã hoàn toàn bỏ rơi đơn vị của ông rồi. Ông không còn sự lựa chọn nào khác: chỉ có đầu hàng mới có thểcứu được binh sĩ dưới quyền của ông mà thôi.
Hiện diện tại cuộc họp là các sĩ quan tiểu đoàn trưởng và các sĩ quan tham mưu của trung đoàn có mặt lúc đó trong Trại Carroll. Tác giả Wiest chỉ ghi vắn tắtlà độ 13 người (nguyên văn: ‘somethirteen men,” ở trang 259). Trong một bài viết về Thiếu Tá Tôn Thất Mãn, tác giả, rất có thể đã dựa vào lời kể lại của chính Thiếu Tá Mãn, đã ghi chi tiết về những người có mặt tại cuộc họp như sau:
· Trung tá Phạm văn Đính - Trung đoàn trưởng
· Trung tá Vĩnh Phong - Trung đoàn phó
· Thiếu tá Thuế- Pháo Binh, phụ tá hỏa lực
· Thiếu tá Tôn Thất Mãn - Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/56
· Đại úy Hoàng Quốc Thoại - Trưởng ban 3
· Đại úy Nhơn - Trưởng ban 2
· Đại úy Hoàng Trọng Bôi - Pháo đội trưởng 175
· Đại úy Nguyễn văn Tâm - Pháo đội trưởng TĐ1/PB/TQLC.
· Trung úy Lê Văn Kiểu- Pháo đội 105
· Thiếu úy Thái Thanh Bình - Chi đội trưởng Thiết Giáp
Tại cuộc họp, Trung Tá Đính trình bày tình thế tuyệt vọng của Trại Carroll (lương thực và đạn dược thiếu thốn, sẽ không có tiếp tế, và không có viện binh, đơn vị đã hoàntoàn bị bỏ rơi, trong khi áp lực của địch quá nặng) và đề nghị mọi người thảo luận về 3 giải pháp:
· Tử thủ, chiến đấu đến giây phút cuối cùng
· Mở đường máu để rời khỏi căn cứ
· Đầu hàng
Mọi người đều im lặng, chỉ có Thiếu Tá Mãn lên tiếng không chịu đầu hàng. Khi bỏ phiếu, mọi người đều bỏ phiếu chịu đầu hàng, chỉ có Thiếu Tá Mãn không bỏ phiếu. Trung Tá Đính thông báo cho địch quân quyết định đầu hàng của Trung Đoàn 56. Sau đó mọi việc đã diễn ra theo sự sắp xếp của địch quân. Cả 2 vị tướng Việt Nam, Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư Lệnh Quân Đoàn I và Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai, Tư Lệnh Sư Đoàn 3 BB, hoàn toàn không biết gì hết về cuộc đầu hàng lịch sử này cho đến khi được các cố vấn Mỹ báo tin, mà ngay lúc được thông báo hai ông cũng không tin.
Hậu Quả cuộc Đầu Hàng của tên hèn nhát , phản bội Phạm văn Đính năm 1972 .
Trung Đoàn 56 là một trung đoàn tân lập của Sư Đoàn 3BB, chưa có nhiều kinh nghiệm chiến trận, nhưng sĩ quan Trung Đoàn Trưởng, Trung Tá Phạm Văn Đính, là một sĩ quan ưu tú, nhiều kinh nghiệm trận mạc, và rất nổi tiếng của QLVNCH. Sinh năm 1937 tại Huế, tốt nghiệp Khóa 9 (Khóa Đoàn Kết, 1959-1960) Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức. Ông đã nổi tiếng là một sĩ quan tác chiến giỏi khi còn là Trung Úy Đại Đội Trưởng Đại Đội Hắc Báo của Sư Đoàn 1 BB. Rời Đại Đội Hắc Báo, ông thăng cấp Đại Úy và giữ chức Tiểu Đoàn Trường Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 3, Sư Đoàn 1BB. Tháng 6-1967, ông thăng cấp lên Thiếu Tá, và được cử kiêm nhiệm chức vụ Quận Trưởng Quận Quảng Điền,tỉnh Thừa Thiên. Trong trận Mậu Thân (đầu năm 1968), chính tiểu đoàn của ông đã có công giải tỏa Thành Nội và kỳ đài Đại Nội ở Huế. Tháng 1-1969, ông thăng lên cấp Trung Tá, vào giữa tháng 5-1969 tiểu đoàn của ông đã tham gia trận đánh mãnh liệt tại Đông Ấp Bia (báo chí Mỹ thường gọi là trận đánh Đồi Thịt Băm - Hamburger Hill để ám chỉ mức độ ác liệt của trận đánh). Tháng 5-1970, ông được cử giữ chức vụ Trung Đoàn Phó, Trung Đoàn 54, Sư Đoàn 1 BB. Tháng 10-1971 ông được cử giữ chức Trung Đoàn Trưởng, Trung Đoàn 56, Sư Đoàn 3BB.
Sau khi được Trung Tá Đính thông báo quyết định đầu hàng, 2 cố vấn Mỹ của Trung Đoàn 56, Trung Tá Camper và Thiếu Tá Brown, từ chối không tham gia vào cuộc đầu hàng và tìm cách thoát ra khỏi Trại Carroll. Hai ông, cùng một số quân nhân Việt Nam Cộng Hòa can đảm không chịu đầu hàng, được một trực thăng Chinook cứu thoát khỏi kịp thời trước khi Trại Carroll bị quân Cộng sản tiếp thu.
Sau khi Trại Carroll lọt vào tay địch quân, Trại Mai Lộc ở phía Nam, do Lữ Đoàn 147 TQLC phụ trách chống giữ, phải triệt thoái ...
Với việc rút khỏi Trại Mai Lộc của Lữ Đoàn 147TQLC, phòng tuyến phía Tây Quảng Trị của Sư Đoàn 3 BB hoàn toàn sụp đổ. Các đơn vị của Sư Đoàn 304 CS tiến về phía Đông một cách dễ dàng để phối hợp với các đơn vị của Sư Đoàn 308 CS ở mặttrận phía Bắc Quảng Trị cùng tấn công uy hiếp căn cứ Ái Tử và Cổ Thành Quảng Trị. Ngày 1-5-1972, Quảng Trị thất thủ, Sư Đoàn 3 BB tan rã , rút lui trong hỗn loạn và bị địch quân truy kích tàn bạo, tạo ra “Đại Lộ Kinh Hoàng” cho dân chúng Việt Nam trên đoạn Quốc Lộ 1 giữa Quảng Trị và Thừa Thiên.
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn