CHƯƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU QUÂN SỬ - QUÂN LỰC VNCH : TIỀN ĐỒN BIÊN PHÒNG BU PRANG - ĐỨC LẬP - TIỂU KHU QUẢNG ĐỨC -. NHỮNG TRẬN CHIẾN QUYẾT LIỆT NAM CAO NGUYÊN ĐAK LAK .

31 Tháng Mười Hai 20214:49 CH(Xem: 2359)
Trận chiến Bu Prang, trận tấn công lớn nhất của cộng quân trên chiến trường Cao nguyên vào 3 tháng cuối năm 1969
Cuối tháng 10/ 1969, CS đã công khai việc đóng quân trên phần đất Cam Bốt khi tung lực lượng từ bên kia biên giới tấn công vào nhiều tiền cứ biên phòng của liên quân Việt-Mỹ ở phía Tây Quảng Đức, cụm tiền cứ bị cộng quân tấn công dữ dội nhất là Bu Prang, nằm ở phía Tây Nam Ban Mê Thuột, cách thị xã này 65 Km, và cách biên giới Việt-Căm Bốt 8 Km. Đây là trận tấn công quy mô nhất của cộng quân trên chiến trường Cao nguyên vào ba tháng cuối của năm 1969, mức độ khốc liệt của trận chiến đã thu hút dư luận quốc tế về sự leo thang chiến tranh của CS. Dựa theo các bản tin chiến sự do Khối Thông tin-Giao tế Dân sự thuộc Tổng cục Chiến tranh Chính trị QL/VNCH phổ biến trong các cuộc họp báo hàng ngày, diễn tiến về trận chiến ở Bu-Prang được ghi nhận như sau.
* 30 ngày kịch chiến quanh căn cứ biên phòng Bu Prang:
Trước khi tung nhiều trung đoàn bao vây căn cứ Bu Prang, ngày 1 tháng 11/1969, Cộng quân đã pháo kích liên tục với hàng ngàn đạn pháo đủ loại vào các tiền cứ Annie, Susan và Kent trong vùng Bu Prang, đây là những tiền cứ hỏa lực do lực lượng Biệt kích và Pháo binh Hoa Kỳ phòng ngự. Ngày 2 tháng 11/1969, để bảo toàn lực lượng, quân trú phòng tại các tiền cứ nói trên triệt thoái để tăng cường lực lượng cho các khu vực khác tại Quảng Đức.
Ngay sau khi lực lượng trú phòng rút khỏi 3 căn cứ nói trên, sáng ngày 3 tháng 11/1969, Cộng quân tung 3 trung đoàn bộ binh và 1 trung đoàn pháo binh bao vây và tấn công căn cứ Bu Prang. Lực lượng trú phòng lúc bấy giờ có 500 Biệt kích quân Biên phòng (Dân sự chiến đấu) và 50 quân nhân Mỹ thuộc liên đoàn 5 Lực lượng Đặc biệt Hoa Kỳ trong vai trò cố vấn và trợ lực. Sau hai ngày tấn kích, Cộng quân gia tăng áp lực bao vây chặt căn cứ, phi cơ tiếp tế và tải thương đã không đáp xuống được vì cộng quân pháo kích dữ dội, 2 khẩu pháo 105 trong căn cứ đã bị phá hủy. Từ ngày 7 đến 14/11/1969, Không quân Việt-Mỹ đã liên tục xuất trận oanh kích vào đội hình cộng quân khai triển quanh căn cứ. Ngày 14 tháng 11, giao tranh dữ dội đã diễn ra khi một đơn vị bộ chiến VNCH nỗ lực tấn công để chọc thủng phòng tuyến của cộng quân ngoài căn cứ, cận chiến đã diễn ra ác liệt, phi cơ đã ném bom lầm khi hai bên đang giao tranh, đơn vị VNCH đã có 20 quân nhân bị tử thương, 21 bị thương, phía cộng quân có 95 bỏ xác tại trận địa.
Ngày 15/11, phi cơ chiến lược B 52 đã dội 180 tấn bom xuống vị trí đóng quân của các trung đoàn cộng quân trong khu vực Bu Prang, cũng trong ngày này, phi cơ quan sát phát giác một đoàn chiến xa cộng quân từ ở phần đất Cam Bốt vượt qua biên giới tiền về hướng Bu Prang. Ngày 16/11, 200 đạn trọng pháo của cộng quân từ phần đất Cam Bốt pháo vào căn cứ Bu Prang, ngay sau đó, phi cơ Việt-Mỹ đã xuất trận oanh kích vào các vị trí đặt pháo của cộng quân ở trên đất Cam Bốt cách biên giới 1 km. Một tòa nhà lớn trong khu vực oanh kích bị sập.
Ngày 17 tháng 11, hai tiểu đoàn bộ chiến VNCH hành quân giải tỏa áp lực cộng quân ở gần Bu Prang và Đức Lập. Được sự yểm trợ mạnh mẽ của Pháo binh và Không quân Việt-Mỹ, lực lượng VNCH đã hạ sát 243 cộng quân, buộc CS phải rút về hướng biên giới. Từ chiều 18 đến sáng ngày 19/11, phi cơ chiến thuật B 52 dội bom 10 lần với 900 tấn bom xuống các địa điểm đóng quân quanh Bu Prang, Đức Lập, Bố Đức tỉnh Quảng Đức. Ngày 20 tháng 11, Cộng quân tiếp tục tấn kích vào Bu Prang, phi cơ chiến lược B 52 đã xuất trận oanh tạc dữ dội vào khu vực quanh căn cứ này. Từ 21 đến 30 tháng 11, Cộng quân vẫn áp lực nặng căn cứ, hệ thống không vận tiếp tế cho căn cứ gặp khó khăn vì pháo kích. Trong hai ngày 31/11 và 1 tháng 12, Cộng quân pháo kích dữ dội vào căn cứ trong nhiều giờ liền, nhưng vẫn không mở được cuộc tấn công bằng bộ binh, B 52 và phi cơ chiến thuật đã cấp thời can thiệp, oanh kích ngăn chận địch quân. Từ đêm 2/12 đến sáng ngày 3 tháng 12/1969, để giải tỏa căn cứ Bu Prang đã bị bao vây 1 tháng, B 52 đã dội bom 7 lần với hơn 1 ngàn tấn bom xuống khu vực quanh căn cứ Bu Prang. Trong 30 ngày bị bao vây, lực lượng trú phòng tại căn cứ đã đẩy lùi nhiều cuộc tấn công bằng bộ binh của cộng quân, giữ vững tuyến phòng ngự. Ngày 4/2/1999, B 52 lại xuất trận “dọn sạch” các vị trí đóng quân của cộng quân quanh căn cứ, áp lực CS đã giảm mạnh, trực thăng tải thương và tiếp tế cho quân trú phòng đã đáp xuống được căn cứ. Cũng trong ngày 4/2/1969, bộ Ngoại giao VNCH đã gửi kháng thư cho Ủy hội Quốc tế phản đối Căm Bốt cho CS đồn trú trên đất Miên và tấn công vào Quảng Đức từ 30 tháng 10/1969. (Thời gian này, quốc trưởng Căm Bốt là Sihanouk thân Cộng, ông đã bị tướng Lon Nol lật đổ vào tháng 4/1970 khi đang công du).
* Đại tướng Westmoreland và kế hoạch biên phòng Khi chính thức được bổ nhiệm giữ chức tư lệnh Lực lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam thay thế đại tướng Harkins vào tháng 6/1964, đại tướng William C. Westmoreland đã đặc biệt quan tâm đến việc phòng ngự ngăn chận cộng quân dọc theo biên giới. Chính ông đã trình với Ngũ Giác Đài tăng cường lực lượng Hoa Kỳ tại Cao nguyên để phối hợp với các đơn vị VNCH tổ chức hệ thống phòng thủ dọc biên giới. Ông đã nhiều lần đến Quảng Đức để thị sát tình hình và chỉ thị cho bộ chỉ huy lực lượng Hoa Kỳ tại Vùng 2 yểm trợ Quân đoàn 2 (thời kỳ này, tư lệnh Quân đoàn là thiếu tướng Lữ Lan) để tăng cường lực lượng phòng thủ các tiền cứ và căn cứ hỏa lực tại Quảng Đức. Tháng 6/1968, trước khi rời Việt Nam về Hoa Kỳ để đảm nhiệm chức vụ Tham mưu trưởng Lục quân, ông đã lên tiếng báo động về sự leo thang của CS và lưu ý các giới chức quân sự Việt Mỹ là CS sẽ vận dụng đường mòn Trường Sơn để tiến hành các cuộc xâm nhập quy mô vào Tây nguyên và miền Đông Nam phần. Trong bản điều trần ngày 8/10/1969 và được Hạ Viện Hoa Kỳ công bố ngày 1/12/1969, tướng Westmoreland đã nhấn mệnh những điểm như sau: Lực lượng Hoa Kỳ còn phải ở lại giúp Việt Nam Cộng Hòa nhiều năm nữa, vẫn có thể chiến thắng nếu muốn; đã có thể chiến thắng nếu tiếp tục oanh tạc cho đến nay.
1973 Đại Tá Nguyễn Hậu Thiện Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Quảng Đức .
Phản ứng của Địa Phương Quân Quảng Đức là tỉnh Đak Nông bây giờ .
Trong những ngày tháng 7.73, những cuộc giao tranh lẻ tẻ giữa các đơn vị Địa Phương Quân Quảng Đức và cộng quân đã cho thấy những dấu hiệu âm ỉ của một mặt trận lớn, kể từ sau Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Đại Tá Nguyễn Hậu Thiện, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Quảng Đức đã tổ chức những cuộc hành quân thám sát liên tiểu đoàn Địa Phương Quân lục soát đến tận đường ranh giới Việt - Miên, chung quanh khu vực đồn biên phòng Bu Prang cũ ( 5Km tới biên giới Miên - Căm Bốt - KamPuChia ) nằm dựa bên con lộ 309 hoang phế. Đồn Bu Prang mới ( 8 Km tới biên giới Miên ở thời điểm năm 1973 đã được bố trí phía dưới ngã ba Tuy Đức và nằm án ngữ ngay trên trục Quốc Lộ 14 dẫn về qua.
Trước những dấu hiệu lạ thường đó, Đại Tá Thiện khẩn xin Quân Đoàn II gửi quân tăng viện. Quân Đoàn II đáp ứng bằng cách gửi một tiểu đoàn ĐPQ của Tiểu Khu Darlac, là tỉnh giáp giới với Quảng Đức, tỉnh lỵ là Ban Mê Thuột. Nhưng đến tháng 9.1973, thì Thiếu Tướng Nguyễn Văn Toàn điều động tiểu đoàn Darlac trở về và gửi hai tiểu đoàn ĐPQ từ Khánh Hòa lên. Như vậy dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Thiện có tất cả bốn Tiểu Đoàn Địa Phương Quân, ông cẩn thận bố trí tất cả lực lượng này vào hai Đồn Bu Prang và Bu Bong. Mỗi tiểu đoàn được tăng cường một pháo đội Pháo Binh 105 ly. Về phía Gia Nghĩa và những điểm trọng yếu còn lại trong tỉnh Quảng Đức, Đại Tá Thiện có thể an tâm với sự bảo vệ hùng hậu của Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân, trong đó có Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân và người Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng trẻ tuổi Vương Mộng Long, mà sẽ cùng đánh văng tất cả các thành phần cộng quân nào đụng đến vị trí của họ.
Song song với những cuộc bố trí quân của QLVNCH ở Quảng Đức, phía cộng sản cũng gấp rút thành lập một lực lượng đặc biệt gọi là Đơn Vị 95, tập trung quân số tương đương một sư đoàn được hợp thành từ Trung Đoàn bộ 205, Trung Đoàn 429 Đặc Công, Tiểu Đoàn 46 Trinh Sát và Tiểu Đoàn 20 Chiến Xa. Hỏa lực yểm trợ rất hùng hậu, với Trung Đoàn 208 Pháo Binh, đơn vị Phòng Không tăng cường thêm loại đại bác 23 mm và hỏa tiễn tầm nhiệt SA7. Tại sao đối phó với bốn tiểu đoàn Địa Phương Quân mà bọn tướng tá Hà Nội phải điều động đến một sư đoàn? Có hai lý do để giải thích. Thứ nhất, cộng sản dường như đã không có thì giờ hoặc đã đốt giai đoạn trinh sát hiện trường, tập quán chiến thuật mà chúng luôn luôn vẫn làm. Tấn công đối phương mà chưa nắm vững địch tình, thì chỉ có cách là đánh liều và dùng số đông để đè số ít. Thứ hai, từ sau thảm bại nhục nhã trong năm 1972, Hà Nội không còn dám coi thường hiệu năng chiến đấu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nữa, nên hễ đánh là chúng phải dùng chiến xa và quân số thật vượt trội, rồi bổ sung thêm nhiều súng phun lửa để quyết đánh gục quân Nam.
Bắt đầu vào khoảng thượng tuần tháng 5. 73, cộng sản đã bất chấp Hiệp Định Ba Lê ký kết ngày 27.1. 73. Chúng đã đưa một tiểu đoàn từ Phước Long ồ ạt kéo đến tấn công Bu Bong và Bu Prang. Mục đích là cầm chân lực lượng diện địa Quảng Đức để cho các đơn vị công binh của cộng quân có thể làm một con đường vận chuyển từ Phước Long qua tỉnh Mondol Kiri của Kampuchea và ngược lên Darlac, Kontum, song song với Quốc Lộ 14 phía bên trái từ Quân Khu III đi lên.
Tuy nhiên công trình này bị gián đoạn liên tục vì Đại Tá Nguyễn Hậu Thiện đã điều động Địa Phương Quân và Pháo Binh tấn công mãnh liệt vào những vị trí đóng quân của địch. Do vậy, công binh địch không hoạt động được. Vì tôn trọng Hiệp Định Ba Lê, chiến sĩ Địa Phương Quân đã không truy kích bọn chúng. Lợi dụng tình thế đó, như những con chuột ẩn trốn khi động và thò mặt khi yên tĩnh, nhiều toán cộng thường xuất hiện cướp phá, giật mìn và pháo kích bừa bãi vào các khu dân cư gây thương vong cho đồng bào ta không phải là ít. Một đơn vị cộng quân bất ngờ đột nhập chiếm được Nhà Thờ Đồn Trà làm bộ chỉ huy công trường và dự trữ thực phẩm cho đám quân làm đường. Trong những trận giao tranh, chiến sĩ Địa Phương Quân đã tịch thu rất nhiều gạo, cá khô, mắm và muối. Song song với công tác làm đường, giặc cộng còn chiếm một buôn Thượng để thành lập quận. Theo nguồn tin tình báo thì chúng đã đặt tên là quận Kiến Trực.
Thật buồn cười, quận thì có mà dân thì không. Đa số dân sống trong vùng này là người Thượng. Khi quân cộng đến, đồng bào Thượng kéo nhau chạy ra vùng quốc gia để tìm kiếm sự bảo vệ và tìm cách mưu sinh. Anh Ca Don kể lại:
Gia đình anh sống ở đây từ lâu với nghề trồng rẫy, nhưng khi CS đến chúng bắt tất cả đồng bào Thượng trong buôn phải đi làm dân công cho chúng. Ăn uống thì phải tự túc nên đã làm cho dân chúng rất khốn đốn và đói khổ trong vòng nhiều tháng. Khi không được vừa lòng thì bọn lính cộng đánh đập dân Thượng rất tàn nhẫn. Vì thế anh Ca Don đã tìm mọi cách để trốn thoát ra khỏi quận “Kiến Trực” của chúng. Anh Ca Don còn cho biết, mặc dù đường rừng núi đối với anh quá quen thuộc, anh có thể đi bất cứ ngày đêm lúc nào cũng được, nhưng bọn CS canh chừng rất nghiêm nhặt nên rất khó trốn đi. Một trường hợp may mắn cho người dân ở đây khi vào một đêm, CS kéo quân tấn công Đồi 943 bị các chiến sĩ Địa Phương Quân đập cho một trận kinh hồn, làm chúng ôm đầu kéo nhau chạy về “quận” Kiến Trực. Pháo Binh của quân ta rót theo, dội xuống “quận” vài trăm trái đạn làm cho mọi thứ trong đó tung hê đảo lộn cả lên. Nhân lúc hỗn loạn ấy, anh Ca Don và một số đồng bào Thượng đã chạy thoát được.
Lưới tình báo của Tiểu Khu Quảng Đức cũng phát giác được âm mưu của giặc cộng định đánh chiếm những căn cứ thuộc phạm vi tiền đồn Bu Prang để bắt dân Kinh lẫn Thượng về làm dân “quận” Kiến Trực. Để thực hiện điều đó, một trung đoàn cộng sản di chuyển từ Lộc Ninh, tỉnh Bình Long, lên bao vây Bu Prang. Để ứng phó, Đại Tá Thiện điều động một Tiểu Đoàn Địa Phương Quân lên tăng cường mặt trận. Đích thân Đại Tá Thiện đến quan sát và chỉnh đốn sự bố phòng của quân ta. Mặt trận Bu Prang bắt đầu sôi động, khi hàng trăm quả đạn 82 ly dội lửa xuống Căn Cứ Bạch Phong nằm trên ngọn đồi có độ cao 960 mét, buộc đơn vị trấn giữ triệt thoái. Đại Tá Thiện lệnh cho Tiểu Đoàn 258 và 259 Địa Phương Quân vào chiến trường, tổ chức tấn công tái chiếm Đồi 960.
Tại vùng biên giới những ngày ấy, đột nhiên trời đổ mưa và sương mù dầy đặc, gây rất nhiều khó khăn cho những phi vụ không yểm. Đại Tá Thiện bay chỉ huy trên một chiếc UH 1 vừa hạ cánh xuống bộ chỉ huy thì đã bị cối 82 ly đón chào ầm ĩ. Người Hạ Sĩ Quan đứng dưới đất ra thủ hiệu chỗ bãi đáp trúng miểng pháo bị thương rất nặng. Trung Tá Sơn, Tiểu Khu Phó kiêm chỉ huy cuộc hành quân điều động Tiểu Đoàn 258 ĐPQ của Đại Úy Đề đánh lên đồi từ hướng Tây Bắc, cùng với Tiểu Đoàn 259 ĐPQ của Thiếu Tá Long tấn công mặt Bắc. Các cánh quân của Đại Úy Đề vừa vào đến chân núi thì nhiều trăm trái đạn pháo từ trong những khu rừng thâm u và cao điểm dội xuống, đồng thời đại liên địch từ trên đồi quạt xuống ác liệt chận lại.
Đồi 960 là một ngọn đồi trọc có xạ trường rất trống trải. Công sự thiết lập trên căn cứ đã bị quân giặc chiếm lấy tử thủ với hỏa lực rất mạnh, nên quân ta đã bị sựng lại phía dưới chưa thể tiến lên được. Một phóng viên chiến trường được anh Nguyễn Trước, sĩ quan báo chí tiểu khu hướng dẫn cùng bò lên đến chỗ Đại Úy Đề:
- Chúng đánh dữ quá làm sao lên được Đại Úy?
Đại Úy Tiểu Đoàn Trưởng kề tai người phóng viên: - Lát nữa anh sẽ thấy!
Khoảng năm phút sau, Pháo Binh của quân ta bắn rất chính xác đã làm những khẩu đại liên trên đồi im thin thít. Pháo Binh dọn đường tới đâu quân ta “nhích” theo tới đó. Một sự phối hợp nhịp nhàng mà quân giặc trên đồi không bao giờ có thể tưởng tượng nổi. Pháo Binh phá xong một công sự của cộng quân, thì chiến sĩ Địa Phương nhào vô chiếm lấy. Cứ thế quân ta lấn dần lên đồi. Người phóng viên chiến trường của tờ báo lính Chiến Sĩ Cộng Hòa từ Sài Gòn lên khâm phục sát đất cái chiến thuật “Pháo Và Lấn” chưa từng thấy trong binh pháp quân trường. Chẳng những thế mà Đại Úy Đề còn tiết kiệm thật nhiều xương máu con cái. Cứ đủng đỉnh chờ Pháo Binh dọn bãi làm thịt chốt cộng, quân ta ôm súng và lựu đạn nhào lên thanh toán đẹp mắt. Trong khi đó các đơn vị của Thiếu Tá Long cũng đã giải tỏa nhanh chóng áp lực của địch vây hãm một trung đội của ta từ mấy ngày trước.
Đến 11 giờ 45 ngày 30.9.73, các cánh quân Địa Phương Quân Quảng Đức đã tràn ngập Đồi Bạch Phong. Quân ta reo hò cắm Cờ Vàng Việt Nam trên đỉnh căn cứ. Năm cán binh cộng sản còn ẩn trốn gần đó nghe thấy tiếng loa gọi hàng của toán Võ Trang Tuyên Truyền thuộc Ty Chiêu Hồi đã đưa tay xin hồi chánh. Các anh được tiếp đón nồng hậu trong tình anh em ruột thịt và được đưa về Sài Gòn lập lại cuộc đời mới. Nhưng đây chỉ mới là khúc dạo đầu của mặt trận Quảng Đức. Những ngày đỏ lửa vẫn còn đang là những đốm than âm ỉ chờ thời điểm bùng lên thành cơn bão.
Bước sang tháng 10.73, nguồn tin kỹ thuật của những toán Viễn Thám gửi về báo động các thành phần của Trung Đoàn 208 Pháo Binh Bắc Việt đã đặt súng gần Tuy Đức, Bu Prang, Bu Bong và Kiến Đức với những khẩu đại bác 122 ly và 85 ly, súng cối 120 ly. Để bảo đảm mức chính xác, Trung Đoàn 208 Pháo Binh CS đã được cấp phát bản đồ tỉ lệ 1:50.000 được in tại Hà Nội. Đến giữa tháng 10.1973 thì Trung Đoàn 205 bộ binh và Trung Đoàn 429 Đặc Công CS đã áp sát đến gần Buprang. Một cuộc diễn tập tác xạ đã được Trung Đoàn Pháo 208 thực hiện trong năm ngày liền, những loại đạn pháo giặc đã dội lên các vị trí của Địa Phương Quân Việt Nam. Để yểm trợ cho mặt trận Quảng Đức sắp nổ lớn, Trung Đoàn 271 CS và Tiểu Đoàn 46 Trinh Sát di chuyển đến Dakson. Trận liệt của cộng quân đã hoàn thành trong ngày 30.10.1973. Các cánh quân của Đơn Vị 95 sẵn sàng chờ lệnh khai hỏa để tấn công quân ta.
Đại Tá Nguyễn Hậu Thiện, Tỉnh Trưởng Quảng Đức, đã rút ra được những kinh nghiệm từ sau những ngày địch dội pháo, nên ông đã điều động tất cả bốn Tiểu Đoàn Địa Phương Quân hành quân ra khỏi hai Căn Cứ Bu Prang và Bu Bong, di chuyển tối đa để tránh pháo, đồng thời càn quét địch đến tận khu vực Tuy Đức. Đại Tá Thiện chỉ lưu lại hai căn cứ này một đại đội ĐPQ, một Trung Đội Công Binh và hai pháo đội 105 ly. Lực lượng Địa Phương Quân chỉ được trang bị nhẹ, vũ khí yếu kém, quân số thiếu hụt mà sắp phải đương đầu với một lực lượng cấp sư đoàn của địch.
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn