SÔNG NÚI NƯỚC NAM - ĐẤT LINH SINH NHÂN KIỆT : LIÊN BANG ĐÔNG DƯƠNG THUỘC PHÁP 1893 VÀ THAY ĐỔI BIÊN GIỚI TỈNH XƯA HƯNG HÓA - CÔNG CUỘC CHINH TÂY CỦA VUA LÊ THÁNH TÔNG (1478 - 1480 ).

31 Tháng Bảy 20216:27 CH(Xem: 2357)
Hưng Hóa : là một Địa danh của Việt Nam vào nửa cuối thế kỷ 19. Tỉnh Hưng Hóa được thành lập năm 1831. Đây là một trong số 13 tỉnh được thành lập sớm nhất ở Bắc Kỳ.
Đây là một tỉnh nằm ở vùng Tây Bắc Việt Nam thuộc Bắc Việt .
Tuy nhiên tên gọi Hưng Hóa đã được ghi sử sách cấp Hành chính từ thời vua Lê Thánh Tông (1466) tương đương với một tỉnh lỵ ngày nay .
Tiền thân của Hưng Hóa là đạo thừa tuyên Hưng Hóa, rồi trấn Hưng Hóa. Hưng Hóa nguyên là đạo Đà Giang thời nhà Trần gồm 2 phủ Quy Hóa (Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, vùng đất bờ trái sông Hồng) và Gia Hưng (Sơn La (Mộc Châu, Yên Châu, Phù Yên, Mai Sơn, Thuận Châu), Hòa Bình, vùng đất hạ lưu sông Đà và giữa sông Đà và Sông Mã). Đến năm 1431, Lê Lợi thu phục Đèo Cát Hãn, có thêm châu Phục Lễ (Mường Lễ), vùng thượng lưu sông Đà do Đèo Cát Hãn cai quản, từng là châu Ninh Viễn của Vân Nam, nhập về. Châu Phục Lễ là đất căn bản của phủ An Tây xứ Hưng Hóa gồm 10 châu (Lai Châu, Luân Châu, Quỳnh Nhai, Chiêu Tấn, Khiêm Châu, Tuy Phụ, Hoàng Nham, Hợp Phì, Tung Lăng, Lễ Tuyền).
Tháng 6 âm lịch Năm Quang Thuận thứ bảy (1466), vua Lê Thánh Tông đặt 13 đạo thừa tuyên là Thanh Hóa, Xứ Nghệ An, Thuận Hóa, Thiên Trường, Nam Sách, Quốc Oai, Bắc Giang, An Bang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, phủ Trung Đô và Hưng Hóa.
Đây là lần đầu tiên từ "Hưng Hóa" được nhắc tới trong sử sách Việt Nam ở cấp một đơn vị hành chính (gần như cấp tỉnh ngày nay).Từ Hưng Hóa đã được nhắc tới từ những năm 1419 như là một xứ. Đạo thừa tuyên Hưng Hóa bao gồm đất đai thuộc các tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Hòa Bình, Phú Thọ ngày nay, cùng một phần lãnh thổ Lào (Hủa Phăn, Xầm Nưa) đây là phần đất thuộc cao nguyên Trấn Ninh đã được nhập vào Đại Việt từ tiểu quốc Bồn Man và một phần tỉnh Vân Nam Trung quốc hiện nay.
Không biết chính xác ai là người đầu tiên thay mặt vua cai quản đạo thừa tuyên này. Tuy nhiên, sách Đại Việt sử ký toàn thư có chép:
Năm Quang Thuận thứ tám 1467...tháng ba... lấy Hưng Hóa thừa tuyên sứ tham nghị Nguyễn Đức Du làm ngự sử đài thiêm đô ngự sử; tri phủ Quy Hóa Nguyễn Thúc Thông làm Hưng Hóa thừa tuyên sứ tham nghị.
Như vậy, có thể ông Nguyễn Đức Du là người đầu tiên cai quản vùng đất có tên gọi khi đó là thừa tuyên Hưng Hóa. Năm 1469, vua Lê Thánh Tông chia đạo thừa tuyên Hưng Hóa thành 3 phủ gồm 4 huyện, 17 châu. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục viết rằng:
Phủ Quy Hóa quản lĩnh 3 huyện: Trấn Yên, Yên Lập, Văn Chấn và 2 châu: Văn Bàn, Thủy Vĩ.
Phủ Gia Hưng quản lĩnh 1 huyện: Thanh Xuyên và 5 châu: Phù Hoa, Mộc Châu, Việt Châu (Yên Châu), Mai Châu, Thuận Châu (Mường Mỗi). Giữa thời Hậu Lê, chia nhỏ Thuận Châu ra làm 4, một phần vẫn giữ làm Thuận Châu, tách thêm 3 châu Tuần Giáo, Mai Sơn và Sơn La. Đến năm 1775, phủ Gia Hưng được quy nạp thêm xứ Mường Thanh (châu Ninh Biên) vốn do Hoàng Công Chất chiếm cứ trước đó. Cũng khoảng lúc đó chia châu Mộc làm 3 châu: Mộc Châu, Đà Bắc, Mã Nam.
Phủ Yên Tây quản lĩnh 10 châu: Luân Châu (Mường Báng), Quỳnh Nhai (Mường Chăn), Lai Châu (Mường Lễ), Chiêu Tấn (Mường Thu), Lễ Toàn (Lễ Tuyền), Hoàng Nham, Tuy Phụ, Hợp Phì, Tung Lăng (Quảng Lăng) và Kiêm Châu (Châu Khiêm). Phủ An Tây (Phục Lễ) nằm kẹp giữa 2 phủ Gia Hưng và Quy Hóa.
Năm Hồng Đức thứ 21 Hậu Lê (1490) đổi là xứ Hưng Hóa . Đời Hồng Thuận (1509-1516) trở thành trấn Hưng Hóa. Đến năm 1831 là tỉnh Hưng Hóa thời nhà Nguyễn .
Theo Hưng Hóa kỷ lược của Phạm Thận Duật thì địa giới tỉnh Hưng Hóa có vị trí địa lý:
Phía đông giáp phủ Lâm Thao tỉnh Sơn Tây
Phía tây giáp các huyện Kiến Thủy phủ Lâm An và Văn Sơn phủ Khai Hóa tỉnh Vân Nam Trung quốc (thời nhà Thanh), các nước Nam Chưởng và Xa Lý (nay là các tỉnh Louangphabang, Phongsali của Lào)
Phía nam giáp châu Quan Hóa (nay là huyện Quan Hóa Thanh Hóa), huyện Trình Cố tỉnh Thanh Hóa nhà Nguyễn (nay là các huyện Muang Et, Xiengkhor, Sop Bao tỉnh Hủa Phăn-HuaPhanh-Lào) và huyện Lạc Yên tỉnh Ninh Bình nhà Nguyễn (nay là các huyện Lạc Sơn, Tân Lạc, Yên Thủy tỉnh Hòa Bình)
Phía bắc giáp với châu Thu ,tỉnh Tuyên Quang nhà Nguyễn (tức Thu Châu hay châu Thu Vật (trước 1823), nay là phần đất huyện Yên Bình tỉnh Yên Bái).
Thay đổi hành chính và đổi tên thời Pháp thuộc​:
Phân chia tỉnh Hưng Hóa và Biên giới Bắc Kỳ-Trung quốc (tỉnh Hưng Hóa cũ với tỉnh Vân Nam) trong bản đồ Bắc Kỳ năm 1890
Tháng 4 năm 1884, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Thiếu tướng Brière de l'Isle mở cuộc hành binh đánh lấy thành Hưng Hóa. Quân nhà Nguyễn cùng quân Cờ Đen thấy không giữ được nên nổi lửa đốt thành rồi bỏ ngỏ đồn lũy, rút lên mạn ngược (khu vực sau là các tỉnh Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái). Chiếm được Hưng Hóa, người Pháp cho phân định lại địa giới, cắt thêm những tỉnh mới cùng tiểu quân khu để dễ dàng cai trị:
Tháng 5 năm 1886 thành lập tỉnh Chợ Bờ (tức tỉnh Mường, sau đổi thành tỉnh Hòa Bình)
Ngày 7 tháng 1 năm 1899, thành lập đạo quân binh IV bao gồm Tiểu quân khu Yên Bái và Tiểu quân khu Lào Cai, Tiểu quân khu Vạn Bú...
Lào Cai là đạo lỵ (về sau đổi thành các tỉnh dân sự như: tỉnh Yên Bái, tỉnh Vạn Bú (sau đổi thành tỉnh Sơn La) đều năm 1895, tỉnh Lào Cai (tháng 7 năm 1907) và tỉnh Lai Châu (tháng 6 năm 1909)...
Sau khi cắt đi 16 châu, 4 phủ và hai huyện Trấn Yên, Văn Chấn để thành lập đạo quan binh IV với các tiểu quân khu, khu quân sự... Tỉnh Hưng Hoá chỉ còn lại huyện Tam Nông và huỵện Thanh Thuỷ. Toàn quyền Đông Dương đã điều chỉnh một số huyện của tỉnh Sơn Tây sang, cộng với 2 huyện còn lại để thành lập tỉnh Hưng Hoá mới.
Năm 1887, Pháp ký kết với nhà Thanh công ước Pháp-Thanh hoạch định biên giới, quy định cắt toàn bộ khu vực lãnh thổ châu Chiêu Tấn phủ An Tây tỉnh Hưng Hóa nhà Nguyễn (tức là khu vực các huyện Sìn Hồ, Phong Thổ, Tam Đường, Nậm Nhùn tỉnh Lai Châu, huyện Bát Xát tỉnh Lào Cai) về cho nhà Thanh . Khu vực này cùng với khu vực 6 châu phủ An Tây Đại Việt đã mất vào thời nhà Lê là Mường Tè (Tuy Phụ), Mường Nhé (Hoàng Nham), Mường Chà (Khiêm Châu), Hợp Phì, Lễ Tuyền, Tung Lăng, Mường La (Quảng Lăng) vốn là đất thế tập tự trị của dòng họ Đèo người Thái trắng. Châu Chiêu Tấn, đương thời do Đèo Văn Trị cần vương kháng Pháp cai quản, bị Pháp chuyển cho nhà Thanh.
Ngày 8 tháng 9 năm 1891, ba huyện Sơn Vi, Thanh Ba, Phù Ninh thuộc phủ Lâm Thao, tỉnh Sơn Tây nhập vào tỉnh Hưng Hoá.
Ngày 9 tháng 12 năm 1892, huyện Cẩm Khê thuộc phủ Lâm Thao, tỉnh Sơn Tây nằm trong địa bàn tiểu quân khu Yên Bái nhập về tỉnh Hưng Hoá.
Ngày 5 tháng 6 năm 1893, huyện Hạ Hòa thuộc phủ Lâm Thao, tỉnh Sơn Tây nằm trong địa bàn tiểu quân khu Yên Bái được nhập vào tỉnh Hưng Hoá.
Năm 1895, cùng với sự đầu hàng của Đèo Văn Trị và sự suy yếu của nhà Thanh, Pháp đã ký kết với nhà Thanh công ước hoạch định biên giới sửa đổi, quy định lấy lại phần đất tỉnh Hưng Hóa cũ đã mất cho nhà Thanh trong công ước năm 1887 và lấy thêm các phần đất nay là các huyện Mường Tè tỉnh Lai Châu, Mường Nhé, Mường Chà tỉnh Điện Biên về cho xứ Bắc Kỳ thuộc Pháp. Phần đất các huyện Mường Tè, Mường Nhé, Mường Chà này là một phần (3/6 châu) của 6 châu (Tuy Phụ, Hoàng Nham, Khiêm Châu, Tung Lăng, Lê Tuyền, Hợp Phì) đã mất cho nhà Thanh Trung quốc từ thời nhà Lê trung hưng, đến suốt thời nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn độc lập chưa lấy lại được. Các phần đất này sau nhập vào tỉnh Lai Châu thời Pháp thuộc. Tuy nhiên, đổi lại Pháp cắt cho Trung quốc phần còn lại sau công ước 1887 của vùng đất Tụ Long Hà Giang, nơi có nhiều mỏ khoáng sản quý.
Ngày 17 tháng 7 năm 1895, hai châu Thanh Sơn và Yên Lập thuộc khu quân sự Đồn Vàng chuyển về tỉnh Hưng Hoá.
Ngày 24 tháng 8 năm 1895, hai huyện Hùng Quan và Ngọc Quan của phủ Đoan Hùng thuộc tiểu quân khu Tuyên Quang; đạo quan binh 3 Yên Bái nhập vào tỉnh Hưng Hoá.
Năm 1900, thành lập thêm huyện Hạc Trì.
Như vậy tỉnh Hưng Hóa mới gồm 2 phủ, 10 huyện và 2 châu. Trong đó 2 huyện Tam Nông, Thanh Thủy và 2 châu Thanh Sơn, Yên Lập vốn là đất cũ của tỉnh Hưng Hoá; phủ Đoan Hùng với 2 huyện Hùng Quan và Ngọc Quan, phủ Lâm Thao và 6 huyện: Sơn Vi, Thanh Ba, Phù Ninh, Cẩm Khê, Hạ Hòa, Hạc Trì là những phủ, huyện mới từ tỉnh Sơn Tây chuyển sang. Tỉnh lỵ tỉnh Hưng Hoá đặt tại thị xã Hưng Hóa (thành lập ngày 1 tháng 5 năm 1895, vốn là thành Hưng Hóa), đóng tại xã Trúc Khê, huyện Tam Nông (nay là thị trấn Hưng Hóa, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ).
Ngày 5 tháng 5 năm 1903, tỉnh Hưng Hóa mới (phần còn lại) được đổi tên thành tỉnh Phú Thọ.
Công cuộc Chinh Tây của vua Lê Thánh Tông .
Chiến tranh Đại Việt - Lan Xang (Lão Qua - Ai Lao hay Lào) : Là cuộc chiến giữa nhà Hậu Lê nước Đại Việt với Lan Xang (Lào). Mục đích phát động của Đại Việt là bình định vương quốc Bồn Man và ngăn chặn sự quấy nhiễu của quân Lan Xang tại biên giới phía tây. Cuộc chiến xuất phát từ những trận chiến lẻ tẻ trong suốt giai đoạn cai trị của Lê Thánh Tông, khiến vị vua này quyết định mở cuộc tiến công lớn vào lãnh thổ Lan Xang (Lão Qua). Cuối cùng sau khi đã nắm chắc được Bồn Man, Lê Thánh Tông sai rút quân vào năm 1480.
Quan hệ giữa Đại Việt và Lan Xang vốn không tốt kể từ đầu thế kỷ 14. Đại Việt thời nhà Trần và Lan Xang cũng có quan hệ không tốt đẹp. Hai bên đã có giao tranh ở khu vực biên giới. Quan hệ giữa Lan Xang (Ai Lao hay Lão Qua) với triều đại sau của Đại Việt là nhà Hậu Lê càng không mấy hòa hảo. Khi Bình Định Vương của nhà Hậu Lê khởi nghĩa, Ai Lao cho Mãn Sát đem 30.000 quân và 100 thớt voi sang phối hợp với quân đội nhà Minh đánh úp. Trong trận đánh ở Sách Thủy, cháu của Lê Lợi là Lê Thạch tử trận.
Sau đó, Lan Xang hay quấy nhiễu biên giới Đại Việt.
Trong khi ngược lại, sau khi thiết lập nhà Hậu Lê - Đại Việt sáp nhập một số mường của Lan Xang vào lãnh thổ của mình, đồng thời bắt Lan Xang thần phục và giao nộp cống vật .

Theo sử Việt, đất Bồn Man (Lan Xang gọi là Muang Phuan) đã xin nội thuộc Đại Việt dưới triều Hoàng đế Lê Nhân Tông, được vua Nhân Tông nhập vào Đại Việt thành châu Quy Hợp-Trấn Ninh thuộc xứ Nghệ An và cử quan quân sang, nhưng vẫn cho họ Lư Cầm đời đời làm Phụ đạo.
Đến giữa thế kỷ 15, quan hệ hai bên lại xấu đi. Lan Xang mang quân đánh phá biên giới Đại Việt và xung đột bùng phát.
Xung đột biên giới​ .
Tháng 2 năm 1467, quân Lan Xang đánh chiếm động Cự Lộng, quấy nhiễu các vùng biên giới. Lê Thánh Tông sai Hành tổng binh Khuất Đả đem 1.000 quân, cùng với Đồng tổng binh Nguyễn Động và Tán lý quân vụ Nghiêm Nhân Thọ họp với quân đồn trú trấn Gia Hưng lên đánh. Khi đến nơi, quân Lan Xang đã rút, Khuất Đả bèn tâu là Lan Xang xin trả lại đất đã chiếm. Lê Thánh Tông bèn cho Đào Viện thay chức Đốc tướng.
Tuy nhiên, đến tháng 3, Khuất Đả họp quân ở Mộc Châu (Gia Hưng), sai đem 300 thổ binh đóng quân ở sách Câu Lộng (Mã Giang), sai Lê Miễn đêm quân vệ Gia Hưng đóng quân ở Khâu Chúc, hợp với quân hai châu Mường Việt và Mường Muỗi, hư trương thanh thế khiến quân Lan Xang tan vỡ. Tướng Lan Xang (Ai Lao) là Đạo Đồng ra hàng. Khuất Đả sai Kinh lược Mộc Châu họ Xa và Cầm La canh giữ đất, sửa cửa ải. Vua Lê Thánh Tông ban đầu định sai giết, nhưng sau khi nghe lời Đinh Liệt thì vẫn không nguôi giận, sai giam vào ngục.
Sau đó, Hiệu úy Hoàng Liễn đánh trận cuối ở Khâu Lạo. Quân Lan Xang thiệt hại 3.000 người. Đến đây, xung đột tạm ngưng. Năm 1471, Lan Xang sai sứ đến Thăng Long. Khi ấy vua Lê Thánh Tông đang đi đánh Chiêm Thành, phải di chuyển vào hành điện tại cửa Tư Dung. Khi vua Lê trở về mới gặp. Uy thế của Đại Việt khi đó lên cao. Năm 1474, Lan Xang phải sang cống nộp.
Xung đột tạm lắng khoảng vài năm, tình hình lại căng thẳng trở lại.
Theo sử Lào, năm 1478, một viên tướng của vua Lan Xang Xaiyna Chakhaphat bắt được một con voi trắng và dâng lên vua.
Được tin, vua Đại Việt sai sứ sang xin lông voi trắng.
Chao Chienglaw, thái tử Lan Xang, luôn ghét Đại Việt vì nhiều lý do này khác, liền thay vì tặng lông voi, lại sai nhét phân voi vào một chiếc rương và gửi cho vua Đại Việt.
Vua Đại Việt nổi giận vô cùng cất binh đánh Lan Xang.
Tuy nhiên, cần phải xét rằng trong lãnh thổ Đại Việt khi đó không phải không có voi trắng, vì Đại Việt Sử ký Toàn thư có chép về việc bắt voi trắng vào các năm 1068, 1418,... và tượng binh là một binh chủng thường trực của quân đội Đại Việt từ thời Trưng Vương. Do đó , việc đưa sứ giả qua xin lông voi trắng, có thể là một cái cớ để phát động công cuộc Chinh Tây của vua Lê Thánh Tông .
Năm 1478, Cầm Công (hay Lư Cầm Công thủ lĩnh của Bồn Man) liên kết với Lão Qua (Lan Xang) đem binh quấy nhiễu (châu Quy Hợp) khu vực phía tây xứ Nghệ của Đại Việt. Vua Lê quyết định cất quân sang đánh Lan Xang.
Văn bản lịch sử gần sự kiện này nhất là Đại Việt sử ký toàn thư, bộ chính sử do sử thần nhà Hậu Lê soạn, có ghi:
“ Mậu Tuất, năm thứ 9... tháng 9... ngày 22, Vua hạ chiếu đi đánh nước Lão Qua... Kỷ Hợi, năm thứ 10... Tháng 6, ngày mồng 7, vua xuống chiếu đi đánh Bồn Man. Tờ chiếu viết: "...Giặc Bồn Man Cầm Công ở lấn ngoài cõi xa xăm. Bỏ chức phiên thần mà lười dâng lễ cống; mang lòng lừa trời mà làm nhục sử thần. Trước còn ôm đầu chạy trốn, nín thở náu mình; sau lại vẫy đuôi kêu thương vội vàng nộp đất. Trẫm thương lương dân sống một phương, tha cho tội ác đáng muôn chết. Đặt quận huyện để trị biên cương; đổi áo xiêm mà trao quan tước. Nhưng nó vẫn ngoan ngu...buông lòng tham sâu...: đảo danh phận lộn ngược giày mũ. Lộng hành quyền binh, chém giết tứ tung; bán cả ruộng dân, vơ vét tiền của... Liêu thuộc ra đón sắc mệnh ở ngoài thành thì gối cao nằm khểnh; quan ải phi báo công văn thắng trận thì đóng cửa ngăn đường. Thậm chí nuôi phường thích khách..., chứa chấp mưu gian... Bày kế gián điệp hòng nhòm ngó nước ta, đặt lời điêu toa để mê hoặc ngoài cõi. Bầy gian ác Lệ Khai thì dung túng chở che, người thổ tù Hàn Triệu lại giam giữ không thả. Thích tên bán nước Đức Lân mà kết làm phụ tử, ghét người tích trữ Lang Tủng thì giết cả vợ con. Nhóm họp lũ bè, thường chống lại quan triều cai trị; giả kính trái mệnh, dám để chậm con tin vào chầu. Trong tin lời yêu tăng gian tà, ngoài dựa tiếng Lão Qua tiếp viện. Chế sứ Nguyễn Tử Nghi hơn vài mươi bọn, trăm cách chống lại mà không nghe; đại thần Vương Văn Đán hơn hai chục người, bỗng chốc đánh giết mà chẳng nể. Lại còn đào hào, sửa giáp, phục kích, đóng đồn. Huống chi tên đầu sỏ Cầm Công, thói đố kỵ ngày càng quá quắt. Nó xé xác quan ấp tể của ta, nó băm vằm quân đồn trú của ta..."
” “ Mùa thu, tháng 7, ngày 22, vua xuống chiếu thân hành đi đánh nước Ai Lao. Tờ chiếu viết: "...Duy nước Lão Qua kia, giáp giới cõi tây. Đương khi Thánh Tổ dẹp giặc Ngô cuồng bạo, đã nhòm sơ hở đánh úp quân ta, đến lúc Thần Vũ giết tên Nghiễm hung tàn, lại giúp kẻ gian dấy binh đánh chiếm. Chỉ vì kẻ thù của vua cha chưa diệt, mà di địch kia ngạo ngược càng già. Gọi Cao Hoàng (đế) là em, coi Dụ miếu là cháu …; sang cướp châu Lang Chánh, sang quấy phủ An Tây. Vườn tược Sầm Thượng, Sầm Hạ, nó ăn lấn như tằm; nhân dân biên giới của ta, nó lấm lét cắn trộm. Thuận Bình, Sa Bôi do vậy rối ren; Lâm An, Quy Hợp bị chúng giày xéo. Thang Thượng, Thang Hạ là biên ấp của ta, nó cướp đoạt hoành hành; Đạo Luận, Đạo Xa, tên thổ tù phản ta, nó kêu gọi, chứa chấp. Sứ của nó sang thông, thì ta hậu đãi cho về, quan của ta giao thiệp, nó lại bắt giữ bỏ ngục. Đến nước tên Cầm Công trong khi ẩn náu, nó đã giúp đỡ bao che và lúc tên Cầm Công trở mặt cắn càn, nó lại cho quân tiếp sức. Xâu xé bờ cõi ta, chiếm lấn đất đai ta. Đây đâu chỉ là mối lo một thời nơi cương giới, mà thực là mối thù muôn kiếp của nước nhà…"
Lực lượng và kế hoạch của hai bên​ :
Sử Lào kể rằng triều đình Đại Việt đã phái 55 vạn quân dưới sự chỉ huy của ngàn tướng lĩnh sang đánh Lan Xang. Chao Chienglaw chỉ huy quân Lan Xang kháng cự. Ông có 20 vạn quân và 2 ngàn thớt voi, 6 vị dũng tướng gồm Norasing, Noranarai, Noradet, Norara, Muen Luang và Phya Kwatepa.
Quân Đại Việt gồm 5 đạo quân khi chính thức xuất quân ngày 23 tháng 8 âm năm Mậu Tuất (1478) là 18 vạn tiến vào từ 5 ngả:
Trịnh Công Lộ, Lê Vĩnh (cánh quân chính phía Bắc) theo đường phủ An Tây (Mường Lay tỉnh Lai Châu) đánh thẳng vào Lão Qua (Kinh đô Luang Prabang).
Nguyễn Lộng (Lê Lộng), Đinh Thế Nghiêu theo đường Thuận Mỗi (Thuận Châu tỉnh Sơn La), nhưng vẫn trong tầm điều hành của cánh quân Trịnh Công Lộ và yểm trợ cho cánh quân này đánh Lan Xang (Lão Qua).
Lê Nhân Hiếu (cánh quân Bắc trung tâm) theo đường phủ Thanh Đô (sau gọi là phủ Thọ Xuân nay là hướng các huyện Thường Xuân, Lang Chánh, Quan Sơn tỉnh Thanh Hóa), qua đường Hủa Phăn (đất Lão Qua) đánh Lão Qua và vu hồi vào Bồn Man.
Lê Thọ Vực (cánh quân trung tâm) theo đường chính phủ Trà Lân (Kỳ Sơn, Tương Dương tỉnh Nghệ An) đánh trực tiếp vào Bồn Man (Xiêng Khoảng), rồi xuyên qua Bồn Man sang Lão Qua.
Lê Đình Ngạn (cánh quân Nam trung tâm) theo đường phủ Ngọc Ma (mặt Tây Nam tỉnh Nghệ An, khoảng Con Cuông, Thanh Chương tỉnh Nghệ An, Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh) ngược lên theo hướng Tây Bắc đánh Bồn Man rồi Lão Qua.
Đầu năm Kỷ Hợi (1479) vua Lê Thánh Tông sai Lê Niệm mang 30 vạn quân tăng viện đánh Bồn Man.
Cuốn History of Laos (including the history of Lannathai, Chiengmai) của M. L. Manlch, phần viết về vua Tilokarat (1441-1485) của Lan Na cung cấp một thông tin rằng vua Tilokarat đã đẩy lui quân Việt Nam tấn công vào vùng đất phía Đông của nước ông, nơi mà nay là tỉnh Nan của Thái Lan. Có thể sự kiện này liên quan đến cuộc chiến tranh giữa Đại Việt và Lan Xang. Nhưng không rõ việc quân đội Đại Việt tấn công Nan là do truy đuổi quân Lan Xang chạy tới đó hay là chủ ý tấn công Lan Na. Cuốn A Short History of Laos của Grant Evans cho biết khi nhà Lê tấn công Lan Xang, một chúa xứ Nan đã giúp Lan Xang chống lại. Đại Việt sử ký toàn thư không thấy nhắc đến việc quân đội của Lê Thánh Tông tấn công nước nào khác ngoài Bồn Man và Lão Qua (tức Lan Xang) trong cuộc chiến tranh này.
Minh thực lục, cuốn sử của Trung quốc ghi tổng số quân Đại Việt tham chiến là 23 vạn, trong đó có 8 vạn phu mở đường và chở lương.
Theo sử Lào, quân Lan Xang đặt mai phục ở đồi Poomung. Trận chiến diễn ra suốt 3 ngày đêm, hai bên đều thương vong lớn, quân Lan Xang phải rút về Na Khaochao. Quân đội Đại Việt truy kích và giao chiến ở cánh đồng Na Moungkon và Na Haidio. Hai bên đều chịu tổn thất, nhưng quân đội Đại Việt dựa vào ưu thế tạm thời về quân số bao vây và đánh bại Lan Xang, giết chết hai tướng Muen Kwatepa và Muen Neua. Cánh quân lan Xang do tướng Muen Bun và Muen Luan đến cứu cũng bị tiêu diệt. Một số tướng Lan Xang là Norasing, Noranarai, Noradet và Norara thì bị bắt sống và xử tử ở Na Khaochao. Bản thân thế tử Chao Chienglaw bị thương nặng, rồi bị bắt giết.
Thất bại lớn khiến vua Xaiyna Chakhaphat cùng hoàng tộc vội lên thuyền chạy tới Chieng Khan phía bờ Tây sông Mê Kông (khi đó thuộc Lan Na, nay thuộc tỉnh Loei, Thái Lan). Quân đội Đại Việt tiến vào thành Luang Prabang, tịch thu của cải, lấy đây làm bàn đạp để tiến sang phía Tây.
Khi đó hoàng tử Thengkham, con thứ của Xaiyna Chakhaphat, đang cai trị ở Dansai (thuộc Loei) tập hợp quân ở vùng Dansai và Chieng Khan tiến về Luang Prabang. Quân Đại Việt khi đó đã rút khỏi kinh đô Lan Xang .
Chiến sự lan rộng​
Theo Đại Việt Sử ký toàn thư, sau khi đánh chiếm Luang Prabang, quân đội Đại Việt mở cuộc tiến công truy kích quân Lan Xang về phía Tây, đưa quốc thư cho vua Miến Điện (Ava):
“ Năm đạo quân cùng hợp đồng đánh Ai Lao, phá tan bọn chúng, vào thành Lão Qua, tịch thu của cải châu báu. Quốc vương nước ấy chạy trốn. Ta bắt sống dân chúng, chiếm lấy đất đai, đến tận sông Trường Sa (?), giáp biên giới phía nam nước Miến Điện, nhận được thư của nước Miến Điện, thắng trận trở về. ”
Cánh quân trung tâm do Lê Thánh Tông thân chinh mới đến hành cung Chiềng Vang, sau đến Châu Bồ được bốn ngày thì nghe tin Trịnh Công Lộ đại thắng, bèn trở về Thăng Long. Tuy nhiên, các cánh quân đánh Bồn Man có lẽ chưa thành công khi thư báo thắng trận của Lê Thọ Vực bị chặn mất. Lê Thánh Tông liền sai hai tướng vận lương Khâm sai Trần Bảo, Phó tướng Nguyễn Cảnh Thanh mang sắc chỉ cho Lê Thọ Vực khi đó đang đóng tại vùng đất chiếm được ở Sa Quan, châu Niệm Tống Trung (ngã ba sông thượng du Lan Xang).
Lê Thánh Tông trở về lập tức sai Lê Niệm đốc suất quân đội (sử ghi là 300.000), thân chinh để tiêu diệt hoàn toàn lực lượng kháng cự của Cầm Công tại Bồn Man. Quân đội Đại Việt vượt qua được cửa ải, đốt phá các thành trì kháng cự, thiêu hủy kho tàng. Cầm Công bỏ chạy rồi chết. Dân Bồn Man khi đó đa phần bị chết đói, 9 vạn hộ chỉ còn 2.000 người bèn đầu hàng. Vua Lê Thánh Tông bèn cho Cầm Đông (em Cầm Công) làm Tuyên úy đại sứ để thu phục. Đại Việt Sử ký Toàn thư có ghi:
“ Xuống chiếu hỏi tin tức đánh nước Lão Qua và hỏi tin về các doanh của Chinh Di tướng quân Trịnh Công Lộ miền thượng lưu, của Trấn lỗ tướng quân Lê Đình Ngạn miền hạ lưu xem đã tiến được gần hay xa, còn hành quân đã hay ngừng lại... phải tâu lên cho tường tận, hẹn ngày 21 tháng này, đến hành điện Chiềng Vang báo cáo. Lại dụ rằng: Thư báo thắng trận của Chinh Tây quân doanh đánh phá nước Lão Qua bị giặc Bồn đón chặn mà mất thì bọn tướng quân Lê Thọ Vực làm bản tâu theo sự thực và kê khai họ tên những người cắt được tai giặc tại trận giao cho Trần Bảo mang theo về hành tại. Ngày mồng 8, xa giá đi tới Châu Bồ, đóng doanh ở đây 4 ngày. Đến ngày 22 đại giá trở về. Ngày 29, quan Khâm sai phó đoán sự vệ Cẩm y Trần Bảo và Hữu tuần tiễu phó tướng quân Nguyễn Cảnh Thanh mang sắc chỉ tới Sa Quan, châu Niệm Tống Trung ở ngã ba sông miền thượng lưu thuộc đất Lão Qua. Tháng 12, ngày 28, vua về tới kinh sư. Lại đánh Bồn Man. Sai tướng quân Kỳ quận công Lê Niệm đeo ấn tướng quân, mang 30 vạn quân đánh Bồn Man, vì có thư báo thắng trận của Chinh Tây quân doanh đánh nước Lão Qua bị giặc Bồn đón chặn làm mất. Quân vào cửa ải, Cầm Công bỏ chạy rồi chết. Quân ta đốt thành, đánh phá các thành khác, đốt các kho tàng... phong cho người giống nòi đó là Cầm Đông làm Tuyên úy đại sứ, lại đặt quan lại trấn giữ các huyện để cai trị. Sau Cầm Đông lại làm phản... Canh Tý, năm thứ 11 (1480), mùa xuân, tháng giêng, xa giá từ Bồn Man về đến. ” Đến tháng 1 năm 1480, Lê Thánh Tông trở về kinh đô Thăng Long, chiến dịch trừng phạt Lan Xang (Lào) coi như đã hoàn thành mục tiêu , xứ Bồn Man sáp nhập lại với Đại Việt thành vùng cao nguyên Trấn Ninh .
Một thế lực mới xuất hiện hay đúng hơn là một nhà nước mới tại khu vực Đông Nam Á đã bắt đầu so gươm , đấu súng với Đại Việt trên chiến trường Chinh Tây đó là : Lannathai .
Đây là vương quốc người Tai-Yuan chủ nhân của nó là người Thái Yuan ( người Thái bắc ), thành hình sau các cuộc di cư từ vùng nam Trung Hoa xuống thượng nguồn sông Chao Phraya - Đông Nam Á , để tránh trốn những cuộc tấn công của quân lực Mông Cổ xâm chiếm Trung Hoa vào thế kỷ 13 .
Vương quốc Lannathai và Sukhothai hợp nhất bành trướng thế lực và lãnh thổ ở phía tây sông Mê Kông nước Lan Xang và tấn công vương quốc Khmer - KamPuChia ở phía nam .
Về sau này Sukhothai suy yếu , bị vương triều chư hầu Ayutthaya cùng giống Tai-Yuan mới mạnh hơn ở phía nam trung lưu sông Chao Phraya sáp nhập và hình thành nên nước Xiêm La (Siamese) hay Thái Lan ngày nay . Lịch sử đã cho thấy Thái Lan luôn tìm cách cản trở , đối đầu và làm suy yếu Việt Nam trong tất cả các thời kỳ cận kim lịch sử , sẽ đề cập đến chủ đề " Xiêm La - Thái Lan và những cạnh tranh ảnh hưởng khu vực với Đại Việt- Việt Nam " ./.
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn