GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG - LỄ HỘI ĐỀN HÙNG : [“Dù ai đi ngược về xuôi ...Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng mười tháng ba - Khắp miền truyền mãi câu ca ... Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm”

14 Tháng Tư 20249:12 CH(Xem: 644)
(1005)+(1830)+(811)
Theo truyền thuyết thì Lạc Long Quân và Âu Cơ được xem là Thủy Tổ người Việt Nam , cha mẹ của các Vua Hùng. Lễ hội Đền Hùng còn được gọi là ngày Giỗ Tổ Hùng Vương.
Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương diễn ra vào ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm tại Đền Hùng, Việt Trì, Phú Thọ. Trước đó hàng tuần, lễ hội đã diễn ra với nhiều hoạt động văn hoá dân gian và kết thúc vào ngày 10 tháng 3 âm lịch với Lễ rước kiệu và dâng hương tại Đền Thượng.
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng mười tháng ba
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm”
Câu ca dao đậm đà tình nghĩa đã đi vào lòng mỗi người dân Việt Nam từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hàng ngàn năm nay, Đền Hùng - Phong Châu - Văn Lang : nơi cội nguồn của dân tộc Việt , khởi đầu của đất nước Việt Nam .
Từ xa xưa Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương đã có vị thế đặc biệt trong tâm thức của người Việt. Bản ngọc phả viết thời Trần, năm 1470 đời vua Lê Thánh Tông và đời vua Lê Kính Tông năm 1601 sao chép đóng dấu kiềm để tại Đền Hùng, nói rằng: “...Từ nhà Triệu, nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần đến triều đại ta bây giờ là Hồng Đức Hậu Lê vẫn cùng hương khói trong ngôi đền ở làng Trung Nghĩa. Những ruộng đất sưu thuế từ xưa để lại dùng vào việc cúng tế vẫn không thay đổi...”.
Từ thời Hậu Lê trở về trước các triều đại đều quản lý Đền Hùng theo cách giao thẳng cho dân sở tại trông nom, sửa chữa, cúng bái, làm Giỗ Tổ ngày 10 tháng 3 âm lịch. Bù lại họ được miễn nộp thuế 500 mẫu ruộng, miễn đóng sưu, miễn đi phu đi lính.
Đến đời nhà Nguyễn vào năm Khải Định thứ 2 (1917), Tuần phủ Phú Thọ Lê Trung Ngọc đã trình bộ Lễ định ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm làm ngày Quốc tế (Tế Lễ , Quốc Lễ, Quốc Giỗ). Điều này được tấm bia Hùng Vương từ khảo do Tham tri Bùi Ngọc Hoàn, Tuần phủ tỉnh Phú Thọ, lập năm Bảo Đại thứ 15 (1940) cũng đang đặt ở Đền Thượng trên núi Hùng, xác nhận: “Trước đây, ngày Quốc tế lấy vào mùa thu làm định kỳ. Đến năm Khải Định thứ hai (dương lịch là năm 1917), Tuần phủ Phú Thọ là Lê Trung Ngọc có công văn xin bộ Lễ ấn định ngày mồng Mười tháng Ba hằng năm làm ngày Quốc tế, tức trước ngày giỗ tổ Hùng Vương đời thứ 18 một ngày. Còn ngày giỗ (11 tháng Ba) do dân sở tại làm lễ”. Kể từ đây, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm được chính thức .
Quốc Gia Việt Nam - Việt Nam Cộng Hòa tại Nam Việt Nam cũng đã ghi nhận ngày 10 tháng Ba là ngày nghỉ lễ chính thức.
“Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương” là di sản văn hoá nêu rõ giá trị của là thể hiện lòng tôn kính đối với tổ tiên, theo tinh thần “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam.
Lễ hội đã diễn ra từ hàng tuần trước đó với những phong tục như đâm đuống (đánh trống đồng) của dân tộc Mường, hành hương tưởng niệm các vua Hùng Vương , và kết thúc vào ngày 10 tháng 3 âm lịch với lễ rước kiệu và dâng hương ...
Có 2 lễ được cử hành cùng thời điểm ngày chính hội:
Lễ rước kiệu vua: Đám rước kiệu, nhiều màu sắc của rất nhiều cờ, hoa, lọng, kiệu, trang phục truyền thống xuất phát từ dưới chân núi rồi lần lượt qua các đền để tới đền Thượng, nơi làm lễ dâng hương.
Lễ dâng hương: Người hành hương tới đền Hùng chủ yếu vì nhu cầu của đời sống tâm linh. Mỗi người đều thắp lên vài nén hương khi tới đất Tổ để nhờ làn khói thơm nói hộ những điều tâm niệm của mình với Tổ Tiên. Theo quan niệm của người Việt, mỗi nắm đất, gốc cây nơi đây đều linh thiêng và những gốc cây, hốc đá cắm đỏ những chân hương.
Phần hội có nhiều trò chơi dân gian. Đó là những cuộc thi hát xoan (tức hát ghẹo), một hình thức dân ca đặc biệt của Phú Thọ, những cuộc thi vật, thi kéo co, hay thi bơi trải ở ngã ba sông Bạch Hạc, nơi các vua Hùng luyện tập các đoàn thủy binh luyện chiến.
Đền Hùng là tên gọi chung của Khu di tích lịch sử Đền Hùng - quần thể đền chùa thờ phụng các Vua Hùng và tôn thất của nhà vua trên núi Nghĩa Lĩnh, gắn với Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng được tổ chức tại địa điểm đó hàng năm vào ngày 10 tháng 3 âm lịch. Hiện nay, theo các tài liệu khoa học đã công bố đa số đều thống nhất nền móng kiến trúc đền Hùng bắt đầu được xây dựng từ thời vua Đinh Tiên Hoàng trị vì. Đến thời Hậu Lê (thế kỷ 15) được xây dựng hoàn chỉnh như hiện tại.
Đền Hùng được dựng trên núi Nghĩa Lĩnh, giữa đất Phong Châu, ngày nay là xã Hy Cương, Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Quần thể di tích đền Hùng nằm từ chân núi đến đỉnh ngọn núi Nghĩa Lĩnh cao 175 mét (núi có những tên gọi như Núi Cả, Nghĩa Lĩnh, Nghĩa Cương, Hy Cương, Hy Sơn, Bảo Thiếu Lĩnh, Bảo Thiếu Sơn), trong khu rừng được bảo vệ nghiêm ngặt giáp giới với những xã thuộc huyện Lâm Thao, Phù Ninh và vùng ngoại ô Việt Trì, cách trung tâm khoảng 10 km. Khu vực đền Hùng ngày nay nằm trong địa phận của kinh đô Phong Châu của quốc gia Văn Lang xưa. Theo cuốn Ngọc Phả Hùng Vương, đương thời các Vua Hùng đã cho xây dựng điện Kính Thiên tại khu vực núi Nghĩa Lĩnh này.
Theo Ngọc phả Hùng Vương chép thời Hồng Đức hậu Lê thì từ thời nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần rồi đến Hậu Lê vẫn cùng hương khói trong ngôi đền, ở đây nhân dân toàn quốc đều đến lễ bái để tưởng nhớ công lao của Đấng Thánh Tổ xưa…
Chung quy , khu vực di tích Đền Hùng bao gồm bốn đền chính là đền Hạ, đền Trung, đền Thượng và đền Giếng. Từ những bậc đầu tiên dưới chân núi, rồi bước qua một cánh cổng, bước nhiều bậc đá lên thắp hương và thăm thú các đền, kết thúc tại đền Thượng trên đỉnh Nghĩa Lĩnh, nơi có lăng mộ vua Hùng thứ sáu.

-Đền Hạ: Tương truyền là nơi Âu Cơ sinh hạ bọc trăm trứng, sau nở thành một trăm người con.
-Nhà bia: Nhà bia nằm ngay cạnh đền Hạ có kiến trúc hình lục giác với sáu mái.
-Chùa Thiên Quang: còn gọi là Thiên quang thiền tự, tọa lạc gần đền Hạ.
-Đền Trung: Tương truyền là nơi các Vua Hùng cùng các Lạc hầu, Lạc tướng du ngoạn Nghĩa Lĩnh ngắm cảnh và họp bàn việc nước.
-Đền Thượng: Đền được đặt trên đỉnh núi, nơi ngày xưa theo truyền thuyết các Vua Hùng thường lên tiến hành các nghi lễ, tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp thờ trời đất, thờ thần lúa, cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, nhân khang vật thịnh. Ngoài cổng đền có dòng đại tự: "Nam Việt Tổ Tiên " (tổ tiên của người Việt phương Nam). Tấm văn bia Hùng Vương từ khảo được tạc bằng đá xanh, gắn trên tường quan cư ở bên trái đền Thượng, đã bị đánh cắp vào khoảng 10 năm sau khi xuất hiện, chỉ còn lại chân bia , và bia được khôi phục tu sửa sau này .
-Lăng Hùng Vương (Hùng Vương lăng) tương truyền là mộ của Vua Hùng thứ sáu. Lăng mộ nằm ở phía đông đền Thượng, mặt quay theo hướng Đông Nam. Xưa đây là một mộ đất, niên hiệu Tự Đức năm thứ 27 (1870) đã cho xây mộ dựng lăng. Thời Khải Định tháng 7 (năm 1922) trùng tu lại.
-Đền Giếng: Tương truyền là nơi công chúa Tiên Dung và công chúa Ngọc Hoa (con gái của Vua Hùng thứ mười tám) thường soi gương, vấn tóc khi theo cha đi kinh lý qua vùng này. Đền được xây dựng vào thế kỷ 18.
-Đền Mẫu Âu Cơ: Là một ngôi đền được xây dựng trên núi Ốc Sơn (núi Vặn).
-Đền thờ Lạc Long Quân: Theo truyền thuyết, Lạc Long Quân là con của Kinh Dương Vương Lộc Tục và con gái Động Đình Quân tên là Thần Long. Lạc Long Quân được xem là vị vua nước Xích Quỷ, trước nhà nước Âu Lạc. Lạc Long Quân và Âu Cơ được xem như là thủy tổ của dân tộc Việt Nam, gắn liền với truyền thuyết "bọc trăm trứng". Con trai cả của ông là người đã lập ra nước Văn Lang, thống nhất 15 bộ lạc, lấy hiệu là Hùng vương đời thứ nhất. Hiện nay đền thờ Lạc Long Quân nằm tại núi Sim của khu di tích lịch sử Đền Hùng, cách núi Nghĩa Lĩnh (hay còn gọi là núi Hùng) khoảng 1 km về phía Đông Nam.
-Trống đồng mang tên Trống Hy Cương được tìm thấy ở xã Hy Cương ngay dưới chân núi Nghĩa Lĩnh ngày 7 tháng 8 năm 1990 , khi một gia đình người dân đào hố nung vôi.
Trống khá nguyên vẹn, có đường kính mặt 93 cm và chiều cao 70 cm, là trống đồng Đông Sơn có kích thước lớn nhất trong tổng số trống Đông Sơn đã biết ở Việt Nam và Đông Nam Á . Trống có hoa văn trang trí phong phú và cách điệu hóa cao độ, trong đó có các loại hoa văn như hình ngôi sao mười hai cánh đường kính đến 20 cm, tám con chim lạc dài 15 cm bay theo hướng ngược chiều kim đồng hồ, hình người hóa trang cách điệu chỉ có mắt và lông công, thuyền … Có thể quanh Hy Cương còn nhiều trống đồng chưa được khám phá ra , nhưng với việc phát hiện trống lớn như một bằng chứng khảo cổ tại chân núi Nghĩa Lĩnh, cho thấy vị trí đặc biệt của Hy Cương và đền Hùng trong lịch sử dân tộc (trống lớn thường thuộc sở hữu của một vị tù trưởng hoặc thủ lĩnh rất lớn), là một trong những minh chứng khẳng định tính lịch sử của huyền thoại các vua Hùng. Trống hiện được lưu giữ trong Bảo tàng Hùng Vương .
Khu vực đền Hùng ngày nay nằm trong địa phận của kinh đô Phong Châu của quốc gia Văn Lang thuở ngàn năm xưa Hùng Vương Lập Quốc .
Tương truyền của dân gian thì ngã ba sông Bạch Hạc là sự gặp gỡ của 3 con sông : sông Hồng khúc sông Thao và sông Đà bên phải với sông Lô bên trái .
Nơi hội tụ của linh khí sông núi, tạo thành nguồn nước liên kết âm – dương, có thể “tẩy rửa bụi trần” nên không biết tự bao giờ, nước sông ở ngã ba Bạch Hạc đã được người dân tin dùng vào những việc trọng đại như: Thờ cúng, làm móng xây nhà, hàn thổ ngày tân gia… Cứ mỗi dịp cuối năm hay chuẩn bị tới ngày Giỗ Tổ 10.3 âm lịch, dân vạn chài xóm phường Bạch Hạc, Việt Trì lại hối hả, bận rộn với khách đến nhờ đưa đi lấy nước thiêng.
THỜI HỒNG BÀNG - TRIỀU ĐẠI HÙNG VƯƠNG - NƯỚC VĂN LANG :
Thời kỳ Hồng Bàng theo truyền thuyết và dã sử cho rằng bắt đầu từ năm 2879 TCN, là niên đại của Kinh Dương Vương, với quốc hiệu Xích Quỷ. Lãnh thổ của quốc gia dưới thời Kinh Dương vương rộng lớn, phía bắc tới sông Dương Tử (cả vùng hồ Động Đình), phía nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía đông là Đông Hải (một phần của Thái Bình Dương), phía tây là Ba Thục (Tứ Xuyên, Trung Hoa ngày nay).
Kinh Dương Vương có thể là danh hiệu đời sau truy tặng cho một tù trưởng bộ lạc đã góp công vào việc thống nhất tộc người Lạc Việt, có thể là tù trưởng bộ lạc Văn Lang trước Hùng Vương.
Sự nghiệp của ông được tiếp nối bởi Lạc Long Quân và Hùng Vương thứ nhất. Niên đại của Kinh Dương Vương là trước thế kỷ VII TCN bởi theo các bằng chứng khảo cổ học thì nhà nước đầu tiên Văn Lang được thành lập vào thế kỷ VII TCN.
Con trai của Kinh Dương Vương Lộc Tục với con gái Động Đình Quân Thần Long.
Là Lạc Long Quân tên húy là Sùng Lãm được xem là một trong chín người con cai quản của nhà nước sơ khai Xích Quỷ trước nhà nước Văn Lang.
Sau đó, Lạc Long Quân từ chối ngôi báu, chấp nhận lui về sống ở vùng đất Bắc Việt xa xôi ở tận phía nam.
Từ đó nước Xích Quỷ chính thức bị chia thành chín nước nhỏ không bao giờ hợp nhất lại được nữa. Từ chín nước nhỏ tiếp tục bị chia cắt nhiều hơn tạo thành Bách Việt.
Về sau người Việt chỉ thấy có ở miền Bắc Việt Nam ngày nay, có thể một phần do sự lấn áp của các tộc người Hoa Hạ từ phương Bắc.
Lạc Long Quân và Âu Cơ được xem là thủy tổ sinh ra dân tộc Việt Nam theo truyền thuyết "bọc trăm trứng". Lạc Long Quân có thể là danh hiệu truyền lại trong dã sử của một tù trưởng đã có công trong việc đi đến thống nhất các bộ tộc người Lạc Việt.
Lạc Long Quân thường xuyên lên bờ dạy dân việc cày cấy nông trang, đặt ra các đẳng quân, thần, tôn, ti, các đạo cha con, vợ chồng, đôi khi trở về Thủy Phủ mà trăm họ vẫn yên vui vô sự, không biết do đâu được thế. Hễ dân có việc lại lớn tiếng gọi Long Quân rằng: "Bố ơi! Sao không lại cứu chúng tôi!". Long Quân tới ngay, sự linh hiển của Long Quân, người đời không ai lường nổi.
Đột nhiên một ngày nọ, xuất hiện một bệnh dịch lớn mà Lạc Long Quân không trị được.
May mắn thay đã có một tiên nữ tên Âu Cơ từ trên núi xuống ra tay giúp đỡ, nhờ thế mà mọi người mới vượt qua bệnh dịch này. Âu Cơ đi khắp bốn phương để giúp đỡ và chữa trị cho những người đang lâm bệnh và gặp khó khăn. Nàng có lòng từ bi và có tài về y thuật.
Một ngày nọ, một con quái vật làm nàng sợ hãi. Nàng liền biến thành một con sếu mà bay đi.
Lạc Long Quân, là thần rồng từ biển cả, thấy nàng đang gặp nguy hiểm liền cầm lấy cục đá và giết tên quái vật.
Sau đó tình yêu đã nảy nở giữa hai người và họ cưới nhau.
Âu Cơ sinh ra một bọc trứng có 100 người con. Một hôm Lạc Long Quân bảo Âu Cơ: "Ta là giống Rồng . Nàng là giống Tiên, thủy thổ khắc biệt , ăn ở với nhau lâu dài không được..." Hai người bèn chia con mà ở riêng...
50 con theo Mẹ Âu Cơ lên vùng núi non sơn cước tạo nên dòng Âu Việt và 50 con theo Cha Lạc Long Quân xuống vùng đồng bằng sát biển Đông tạo nên dòng Lạc Việt .
Nước Văn Lang khởi nguồn của Việt Nam bắt đầu từ dòng Lạc Việt :
Người con trai đầu tiên của Lạc Long Quân là tù trưởng bộ lạc Văn Lang đã thống nhất thành công 15 bộ lạc, thành lập nhà nước Văn Lang, xưng hiệu Hùng Vương đời thứ nhất.
Có 18 đời Hùng Vương cai trị trong thời đại Hồng Bàng, cho đến năm 258 TCN. Các đời vua Hùng dựa nhiều trên các truyền thuyết. Cũng có nhiều bằng chứng khảo cổ học như trống đồng Đông Sơn được tìm thấy ở miền bắc Việt Nam có cùng niên đại với thời kỳ Hồng Bàng, thể hiện một nền văn hóa đồ đồng rất phát triển (văn hoá Đông Sơn).
Vua Hùng Vương là cách gọi các vị vua nước Văn Lang của người Lạc Việt. Theo truyền thuyết, Hùng Vương thứ I là con trai của Lạc Long Quân, lên ngôi vào năm 2879 trước công nguyên, đặt quốc hiệu là Văn Lang, chia nước làm 15 bộ, truyền ngôi đến năm 258 (Trước Công Nguyên) tới đời vua Hùng 18 thì suy vi ,rồi bị Thục Phán - thuộc dòng Âu Việt sát nhập tạo nên nước Âu Lạc - An Dương Vương .
Truyền thuyết về Hùng Vương được ghi chép lại lần đầu tiên vào cuối đời Trần tại Hồng Bàng Thị truyện trong sách Lĩnh Nam chích quái; sau đó được sử gia Ngô Sĩ Liên đưa vào Đại Việt Sử Ký Toàn thư ở cuối thế kỷ XV.

Câu chuyện lịch sử vua Hùng không có trong chính sử mà nằm trong các truyền thuyết dân gian của người Việt được kể lại qua nhiều đời. Theo truyền thuyết, có 18 đời vua Hùng và các vua Hùng là hậu duệ của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Hùng Vương thứ I sinh năm 2879 trước công nguyên, Hùng Vương thứ XVIII lại mất năm 258 trước công nguyên. Danh sách 18 vị vua Hùng bao gồm:
1.Kinh Dương Vương(涇陽王): 2879 - 2794 TCN (số năm trị vì là ước đoán). Huý là Lộc Tục (祿續).
2.Hùng Hiền Vương(雄賢王), còn được gọi là Lạc Long Quân (駱龍君 hoặc 雒龍君 hoặc 貉龍君): 2793 - 2525 TCN. Huý là Sùng Lãm (崇纜).
3.Hùng Lân Vương (雄麟王): 2524 - 2253 TCN.
4.Hùng Việp Vương (雄曄王): 2252 - 1913 TCN.
5.Hùng Hy Vương (雄犧王): 1912 - 1713 TCN (phần bên trái chữ "Hi" 犧 là bộ "ngưu" 牛).
6.Hùng Huy Vương (雄暉王): 1712 - 1632 TCN.
7.Hùng Chiêu Vương (雄昭王): 1631 - 1432 TCN.
8.Hùng Vĩ Vương (雄暐王): 1431 - 1332 TCN.
9.Hùng Định Vương (雄定王): 1331 - 1252 TCN.
10.Hùng Hi Vương (雄曦王): 1251 - 1162 TCN (phần bên trái chữ "Hi" 犧 là bộ "nhật" 日).
11.Hùng Trinh Vương (雄楨王): 1161 - 1055 TCN.
12.Hùng Vũ Vương (雄武王): 1054 - 969 TCN.
13.Hùng Việt Vương (雄越王): 968 - 854 TCN.
14.Hùng Anh Vương (雄英王): 853 - 755 TCN.
15.Hùng Triêu Vương (雄朝王): 754 - 661 TCN.
16.Hùng Tạo Vương (雄造王): 660 - 569 TCN.
17.Hùng Nghị Vương (雄毅王): 568 - 409 TCN.
18.Hùng Duệ Vương (雄睿王): 408 - 258 TCN.

Truyền thuyết vua Hùng
Tương truyền, hàng nghìn năm trước, Lạc Long Quân (Rồng Vương của bộ tộc Lạc Việt) có sức mạnh siêu phàm, thích ở gần nước. Chàng kết duyên với tiên nữ Âu Cơ (con gái Đế Lai, vua của một bộ tộc phương bắc trên cao nguyên) khi nàng du ngoạn phương nam. Thời gian trôi qua, Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra trăm người con xinh đẹp. Những đứa trẻ lớn lên khỏe mạnh và thông minh giống cha, và tốt bụng và khéo léo giống mẹ. Họ được dạy kỹ cách canh tác đất đai và sống cao thượng. Nhưng ngay sau đó, cặp đôi bắt đầu không hạnh phúc. Lạc Long Quân luôn thấy lòng mình khát khao những miền biển trong khi Âu Cơ không ngừng khao khát những cao nguyên.
Hai vợ chồng quyết định chia con, năm mươi đứa sẽ cùng Lạc Long Quân sinh sống dọc bờ biển. Âu Cơ sẽ dẫn năm mươi người còn lại lên nương rẫy ở với nàng. Tuy nhiên, họ đã hứa với nhau rằng bất chấp khoảng cách và sự xa cách, họ phải chăm sóc lẫn nhau và luôn ở bên để giúp đỡ nếu ai đó cần. Lạc Long Quân và Âu Cơ là con cháu của nước Việt Nam nên người Việt Nam tự xưng là “Con Rồng Cháu Tiên”.
Con trưởng của Lạc Long Quân và Âu Cơ đã cùng mẹ lập nghiệp ở Phong Châu nay là nam bộ tỉnh Phú Thọ và tự xưng làm vua. Đó là vua Hùng I, vương quốc do 50 bộ lạc hợp thành. 18 vị vua Hùng cai trị đất nước từ năm 2879 đến 258 TCN.
Lịch sử 18 đời vua Hùng
Lịch sử Việt Nam có 18 đời vua Hùng. Mỗi đời vua Hùng đều gắn liền với một bản sắc dân tộc riêng suốt nhiều nghìn năm.
1. Kinh Dương Vương (涇陽王): 2879 - 2794 TCN
Kinh Dương Vương (chữ Hán: 涇陽王) là một nhân vật truyền thuyết trong lịch sử, tương truyền ông là Đức thủy tổ của người Việt, mở ra nhà nước sơ khai độc lập có chủ quyền đầu tiên của dân tộc ta. Theo Mộc bản sách “Đại Việt sử ký toàn thư” , năm 2879 trước Công nguyên, Kinh Dương Vương lên ngôi, lập nên nhà nước Xích Quỷ (chữ Hán: 赤鬼 tên một vì sao có sắc đỏ rực rỡ nhất trong số 28 vì sao sáng trên bầu trời). Sau đó dời đô ra Ao Việt (Việt Trì). Các vua Hùng là hậu duệ huyết thống của Kinh Dương Vương.
Tại Lăng Kinh Dương Vương có ghi: Kinh Dương Vương tên húy là Lộc Tục, là bậc thánh trí có tư chất thông minh, tài đức hơn người, sức khỏe phi thường. Kinh Dương Vương lấy Thần Long sinh ra Lạc Long Quân (húy là Sùng Lãm). Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai là Âu Cơ sinh ra 100 người con. Con cả là Hùng Quốc Vương.
Kinh Dương Vương mất ngày 18 tháng 1 tại trang Phúc Khang, bộ Vũ Ninh (Bắc Ninh ngày nay) và được nhân dân kính cẩn lập miếu thờ.
2. Hùng Hiền Vương (雄賢王) hay Lạc Long Quân: 2793 - 2525 TCN
Mặc dù trong số 18 đời vua Hùng, Kinh Dương Vương là vua đầu tiên của phương Nam, nhưng chính con của ông là Lạc Long Quân Hoặc húy Sùng Lãm mới là vị Hùng Vương nổi tiếng nhất, là vị vua tu luyện đắc Đạo và vị Thần cổ xưa đầu tiên khai sinh ra dòng giống Bách Việt và định lãnh thổ cho quốc gia Văn Lang thời cổ đại.
Theo truyền thuyết, Lạc Long Quân tên là Nguyễn Lâm, tên huý là Sùng Lãm, tự là Phúc Thọ, thụy là Hùng Hiền Vương, con trai của Kinh Dương Vương. Lạc Long Quân lên nối ngôi 33 tuổi, đổi hiệu là Hùng Hiền vương, trở thành vị vua đầu tiên của triều đại Hùng Vương của quốc gia Văn Lang. Ông trị vì 269 năm, từ năm Mậu Tý (2793 TCN ) đến năm Bính Thìn (2525 TCN).
Nhân duyên trời định đã đưa đến cho ông một người vợ vốn gốc Tiên để khai mở ra dòng giống Bách Việt sau này. Người vợ này chính là Âu Cơ, tổ mẫu của dân tộc ta. Sau khi về làm vợ Lạc Long Quân, Âu Cơ đã sinh ra cho ông những người con trai một cách thần kỳ mà sự tích còn lưu truyền đến ngày nay.
Lạc Long Quân không những là một vị Hùng Vương nổi tiếng nhất, Ngài còn là một vị thần bảo hộ cho dân tộc Việt Nam từ thời thượng cổ. Hễ dân có việc lại lớn tiếng gọi Long Quân rằng: "Bố ơi! Sao không lại cứu chúng tôi!". Long Quân tới ngay, sự linh hiển của Long Quân, người đời không ai lường nổi. Các Thần tích mà Ngài vì dân trừ hại đến nay vẫn được ca tụng lưu truyền. Lạc Long Quân còn dạy cho dân chúng cách ăn ở sinh sống cùng các phong tục tập quán tốt đẹp.
3. Hùng Lân Vương (雄麟王): 2524 - 2253 TCN
Hùng Quốc Vương là vị vua Hùng thứ III, tên húy Hùng Lân, sinh năm Canh Ngọ (2570 tr. TL) lên ngôi khi 18 tuổi, ở ngôi 272 năm, từ năm Đinh Tỵ (2524 TCN ) đến 2253 TCN.
4. Hùng Hoa Vương (雄曄王)
Hùng Hoa Vương là vị vua Hùng thứ IV, húy Bửu Lang, lên ngôi năm Đinh Hợi (2252 tr. TL), ở ngôi tất cả 342 năm, từ năm Đinh Hợi (2254 TCN ) đến năm Mậu Thìn (1913 TCN ).
5. Hùng Hy Vương (雄犧王)
Hùng Hy Vương (雄犧王) là vị vua Hùng thứ V trong 18 đời vua Hùng, húy Bảo Lang, sinh năm Tân Mùi (2030 tr. TL), lên ngôi khi năm 59 tuổi, ở ngôi tất cả 200 năm, từ năm Kỷ Tỵ (1912 TCN) đến Mậu Tý (1713 TCN).
6. Hùng Hồn Vương (雄暉王)
Hùng Hồn Vương (雄暉王), húy Long Tiên Lang, sinh năm Tân Dậu (1740 TCN), lên ngôi khi 29 tuổi, ở ngôi tất cả 81 năm, từ năm Kỷ Sửu (1712 TCN) đến năm Kỷ Dậu (1632 TCN).
7. Hùng Chiêu Vương (雄昭王)
Trong số 18 đời vua Hùng, Hùng Chiêu Vương (雄昭王), húy Quốc Lang, sinh năm Quý Tỵ (1768 TCN) là vị vua Hùng thứ VII. Hùng Chiêu Vương lên ngôi khi 18 tuổi, ở ngôi tất cả 200 năm, từ năm Canh Tuất (1631 TCN) đến năm Kỷ Tỵ (1432 TCN).
8. Hùng Vỹ Vương (雄暐王)
Hùng Vỹ Vương (雄暐王), húy Vân Lang, sinh năm Nhâm Thìn (1469 TCN) lên ngôi khi 39 tuổi, ở ngôi tất cả 100 năm, từ năm Canh Ngọ (1431 TCN) đến năm Kỷ Dậu (1332 TCN).
9. Hùng Định Vương (雄定王)
Hùng Định Vương (雄定王), húy Chân Nhân Lang, sinh năm Bính Dần (1375 TCN), lên ngôi khi 45 tuổi, ở ngôi tất cả 80 năm, từ 1331 đến 1252 TCN.
10. Hùng Uy Vương (雄曦王)
Hùng Uy Vương (雄曦王), húy Hoàng Long Lang, trị vì 90 năm, từ 1251 đến 1162 TCN
11. Hùng Trinh Vương (雄楨王)
Hùng Trinh Vương (雄楨王), húy Hưng Đức Lang, sinh năm Canh Tuất (1211 TCN), lên ngôi khi 51 tuổi, ở ngôi tất cả 107 năm, từ năm Canh Tý (1161 tr. TL) đến năm Bính Tuất (1055 TCN).
12. Hùng Vũ Vương (雄武王)
Hùng Vũ Vương (雄武王), húy Đức Hiền Lang, sinh năm Bính Thân (1105 tr. TL), lên ngôi khi năm 52 tuổi, ở ngôi tất cả 86 năm, từ năm Đinh Hợi (1054 TCN) đến năm Nhâm Tuất (969 TCN).
13. Hùng Việt Vương (雄越王)
Hùng Việt Vương (雄越王), húy Tuấn Lang, sinh năm Kỷ Hợi (982 tr. TL), lên ngôi khi 23 tuổi, ở ngôi tất cả 115 năm, từ năm Quý Hợi (968 TCN) đến Đinh Mùi (854 TCN).
14. Hùng Anh Vương (雄英王)
Hùng Anh Vương (雄英王), húy Viên Lang, sinh năm Đinh Mão (894 TCN) lên ngôi khi 42 tuổI, ở ngôi tất cả 99 năm, từ 853 đến 755 tr. TL.
15. Hùng Triệu Vương (雄朝王)
Hùng Triệu Vương (雄朝王), húy Cảnh Chiêu Lang, sinh năm Quý Sửu (748 TCN), lên ngôi khi 35 tuổi, ở ngôi tất cả 94 năm, từ năm Đinh Hợi (754 TCN) đến năm Canh Thân (661 TCN).
16. Hùng Tạo Vương (雄造王)
Hùng Tạo Vương (雄造王) là Hùng Vương thứ XVI. Tên húy là Đức Quân Lang, sinh năm Kỷ Tỵ (712 TCN), ở ngôi tất cả 92 năm, từ năm Tân Dậu (660 TCN) đến năm Nhâm Thìn (569 TCN).
Trong thời kỳ này, các lãnh đạo địa phương đã nổi dậy chống lại vua Hùng. Giai đoạn kết thúc khi nghĩa quân đầu hàng do sự đàn áp của lực lượng Thạch Tướng.
Khoảng một năm 600 trước Công nguyên , phong cách luyện kim độc đáo của trống đồng Đông Sơn đã được phát minh trong thời kỳ vua Hùng Tạo Vương.
Một khía cạnh quan trọng của văn hóa Việt Nam vào thế kỷ thứ sáu TCN là thủy lợi của các cánh đồng lúa thông qua một hệ thống kênh và đê phức tạp. Ruộng được gọi là ruộng Lạc.
17. Hùng Nghị Vương (雄毅王): 568 - 409 TCN
Hùng Nghị Vương (雄毅王), húy Bảo Quang Lang, sinh năm Ất Dậu (576 TCN) lên ngôi khi 9 tuổi, ở ngôi tất cả 160 năm, từ năm Quý Tỵ (568 tr. TL) đến năm Nhâm Thân (409 TCN).
Hùng Nghị Vương là Hùng Vương thứ XVII trong 18 đời vua Hùng. Tương truyền, vua Hùng thứ XVII có một người con nuôi là Mai An Tiêm, ông tổ trồng dưa ở Việt Nam.
Truyền thuyết kể rằng vua Hùng Vương thứ mười bảy có một người con nuôi là An Tiêm có tài tháo vát và có trí hơn người. Vua yêu mến An Tiêm thường ban cho của ngon vật quý. Có thuyết lại nói rằng Mai An Tiêm là nô bộc, sau được lấy con gái nuôi của Hùng Vương là nàng Ba. An Tiêm thường nói: "Của biếu là của lo, của cho là của nợ!" nên bị các quan tấu lên vua. Vua nổi giận bèn đày gia đình An Tiêm ra đảo hoang.
Sau một thời gian vật lộn với cuộc sống hoang dã, An Tiêm phát hiện ra hạt của loài trái mà chim chóc thích ăn. Ngồi nghỉ một lát thấy mát ruột, đỡ đói, chàng có ý mừng, lấy gươm xới một khoảnh đất mà gieo hạt xuống. Sau đó hạt ra cây, cây ra quả, gia đình An Tiêm cứ trồng dưa thêm mãi. Cứ mỗi lần hái dưa, An Tiêm lấy mấy quả đánh dấu thả ra biển. Dưa trôi biệt tăm tích không biết bao lần, trăng non rồi trăng già không biết bao bận, An Tiêm vẫn không ngã lòng. Quả nhiên một hôm có một chiếc thuyền ghé đến hỏi xem ai đã trồng được giống dưa quý, để đổi về đem bán trên đất liền. Từ đấy An Tiêm đổi được các thức ăn dùng thường ngày và còn cất được một cái nhà lá xinh xinh.
Về phần vua Hùng Vương, từ ngày bỏ An Tiêm ra hoang đảo, vua yên trí rằng An Tiêm đã chết rồi, đôi khi nghĩ đến cũng có bùi ngùi thương hại. Cho đến một ngày kia, thị thần dâng quả dưa lạ, vua ăn ngon miệng bèn hỏi thăm tung tích, mới biết là do An Tiêm trồng ngoài đảo. Vua ngẫm nghĩ thấy mình sai, cho thuyền ra đón gia đình An Tiêm. An Tiêm và nàng Ba mừng rỡ, thu lượm hết những quả dưa chín và hạt giống đem về phân phát cho bà con hàng xóm, và truyền dạy cách gieo trồng, chăm bón.
18. Hùng Duệ Vương (雄睿王): 408 - 258 TCN
Hùng Duệ Vương (雄睿王), sinh năm Canh Thân (421 TCN), lên ngôi khi 14 tuổi, ở ngôi tất cả 150 năm, từ năm Quý Dậu (408 TCN) đến năm Quý Mão (258 TCN).
Hùng Duệ Vương là Hùng Vương thứ XVIII (~334 - 258 TCN). Ông là một vị vua truyền thuyết của nước Văn Lang trong lịch sử Việt Nam và là vị Hùng Vương cuối cùng của thời đại vua Hùng. Tương truyền Hùng Vương thứ XVIII có hai con rể là Chử Đồng Tử và Sơn Tinh.
Theo truyền thuyết, Hùng Vương thứ XVIII có ba người con gái là Mỵ nương Tiên Dung, Mỵ nương Ngọc Hoa và Mỵ nương Ngọc Nương.
Mỵ nương cả là Tiên Dung đến tuổi cập kê không chịu lấy chồng. Một hôm thuyền rồng của công chúa đến thăm vùng Chử Xá, nơi có chàng trai Chử Đồng Tử câu cá ngoài bãi. Nghe tiếng chuông trống, đàn sáo lại thấy nghi trượng, người hầu tấp nập, hoảng sợ vội vùi mình vào cát lẩn tránh. Thuyền ghé vào bờ, Tiên Dung dạo chơi rồi sai người quây màn ở bụi lau để tắm, ngờ đâu đúng ngay chỗ của Chử Đồng Tử. Nước xối dần để lộ thân hình Chử Đồng Tử dưới cát. Tiên Dung kinh ngạc bèn hỏi han sự tình, nghĩ ngợi rồi xin được cùng nên duyên vợ chồng.
Vua Hùng nghe chuyện thì giận dữ vô cùng, không cho Tiên Dung về cung. Vợ chồng Chử Đồng Tử mở chợ Hà Thám, đổi chác với dân gian. Chử Đồng Tử trong một lần đi buôn bán xa gặp một đạo sĩ tên Phật Quang, ở lại học phép thuật. Phật Quang tặng Chử Đồng Tử một cây gậy và một chiếc nón lá, dụ rằng đây là vật thần thông. Chử Đồng Tử - Tiên Dung bèn bỏ việc buôn bán, chu du tìm thầy học đạo. Một hôm tối trời, đã mệt mà không có hàng quán ven đường, hai vợ chồng dừng lại cắm gậy úp nón lên trên cùng nghỉ. Bỗng nửa đêm, chỗ đó nổi dậy thành quách, cung vàng điện ngọc sung túc, người hầu lính tráng la liệt. Sáng hôm sau, dân chúng quanh vùng kinh ngạc bèn dâng hương hoa quả ngọt đến xin làm bầy tôi. Từ đấy chỗ đó phồn thịnh, sung túc như một nước riêng. Nghe tin, vua Hùng cho là có ý tạo phản, vội xuất binh đi đánh. Đến nửa đêm bỗng nhiên bão to gió lớn nổi lên, thành trì, cung điện và cả bầy tôi của Tiên Dung-Chử Đồng Tử phút chốc bay lên trời. Chỗ nền đất cũ bỗng sụp xuống thành một cái đầm rất lớn, người dân gọi là đầm Nhất Dạ Trạch (Đầm Một Đêm).
Mỵ nương thứ hai là Ngọc Hoa khi đến tuổi cập kê, vua Hùng bèn mở hội kén rể. Có hai vị thần là Sơn Tinh và Thủy Tinh đến kén rể, đều mang trong mình sức mạnh phi thường. Vua Hùng rất khó xử về việc nên gả con gái cho người nào, nên ông đã ra quyết định ai dâng những lễ vật tới sớm nhất thì sẽ được gả Mị Nương. Sính lễ bao gồm một trăm ván cơm nếp, hai trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi. Vì dưới biển nên Thủy Tinh có ít sản vật như nhà vua nói trên. Chỉ có Sơn Tinh là có thể tìm ra những sản vật nộp nhanh cho nhà vua. Khi Sơn Tinh đã trở thành con rể vua Hùng thì Thủy Tinh đùng đùng nổi giận, bèn sai những quân lính cùng mình đi đánh Sơn Tinh. Một cuộc chiến lớn đã xảy ra giữa hai người.Nhưng Thủy Tinh không thể đánh lại được Sơn Tinh đành rút quân về. Từ đó, Thủy Tinh và Sơn Tinh thường xuyên đánh nhau mỗi năm, gây ngập lụt vùng dân sinh sống. Nhưng lần nào Thủy Tinh cũng thua, đành rút quân về.
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn